- Đây là trang Web của Hội cựu sinh viên QGHC Úc châu, được thiết lập để phổ biến: các tin tức sinh hoạt trong tập thể cựu SV-QGHC, các tin vui buồn của các Đồng môn và Gia quyến.
- Nhóm chủ trương và ban biên tập trang Web:
– Chủ tịch hội CSV-QGHC Liên bang Úc châu, và các Chủ tịch hội CSV-QGHC các Tiểu bang Queensland, New South Wales, và Victoria.
– Các quản trị viên trang Web “qghc.wordpress”.
Bài Thơ Thứ Nhất -T.T. Kh
T.T.Kh. là một tác giả ẩn danh trong phong trào Thơ mới (1930–1945), tác giả bài Hai sắc hoa ti-gôn nổi tiếng. Nhiều người đã suy đoán lai lịch thật của T.T.Kh. nhưng chưa có giả thuyết nào thuyết phục được công chúng.
Sau khi truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu đăng năm 1937 trên Tiểu thuyết thứ bảy (Hà Nội), toà soạn nhận được hai bài thơ, do một thiếu phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn, mang đến gửi cho chủ bút, ký tên T.T.Kh., xin đăng báo. Báo này đăng hai bài thơ đó và xin tác giả cho địa chỉ nhưng tác giả từ chối. Sự việc rắc rối là trong khi tác giả T.T.Kh. im lặng thì một vài nhà thơ đương thời như Nguyễn Bính, Thâm Tâm đã sáng tác các bài thơ hưởng ứng trong đó dường như có biết, thậm chí có dính líu với đời tư người này từ trước (Cô gái vườn Thanh của Nguyễn Bính, Màu máu ti-gôn của Thâm Tâm). Từ đó, những lời đồn đại về T.T.Kh. càng có thêm nhiều dị bản.
T.T.Kh. chỉ đăng 4 tác phẩm rồi bặt danh:
-Hai sắc hoa ti-gôn (1937)
-Bài thơ thứ nhất (1937)
-Đan áo cho chồng (1937)
-Bài thơ cuối cùng (1938) và Trần Thiện Thanh phổ nhạc.
Nguyễn Thị Hoàng Và Vấn Đề Sáng Tạo
Trong những năm 1970, nhà văn Nguyễn Thị Hoàng đã có dịp lên tiếng với độc giả ít nhất hai lần: lần đầu qua buổi nói chuyện với sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn, năm 1971 (1), lần thứ hai qua cuộc phỏng vấn của tạp chí Văn, năm 1973 (2).
Qua hai lần nói chuyện trên đây, Nguyễn Thị Hoàng đã bàn đến những vấn đề liên quan đến người phụ nữ cầm bút. Nhưng người phụ nữ cầm bút cũng là người mẹ trong gia đình. Cho nên qua bài phỏng vấn của tạp chí Văn có hai Nguyễn Thị Hoàng: một Nguyễn Thị Hoàng nhà văn và một Nguyễn Thị Hoàng mẹ trong gia đình. Trong mục đích tìm hiểu một nhà văn nữ, thời miền Nam, chúng ta để qua một bên nhân vật người mẹ và tập trung sự chú ý vào nhân vật nhà văn.
Nguyễn Thị Hoàng sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 ở Huế, học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, Thành Nội Huế, trường trung học Đồng Khánh, rồi từ năm 1957 học trường trung học Võ Tánh ở Nha Trang. Sau đó Nguyễn Thị Hoàng vào Sài Gòn học Văn khoa và Luật khoa, bỏ dở việc học, dạy học, đi làm, rồi bỏ dở việc làm, sống một cuộc đời tự do với nhiều khó khăn, và chính trong cuộc sống tự do này bà đã bắt đầu cầm bút. Năm 25 tuổi bà khởi đầu viết văn, cuốn Vòng Tay Học Trò mà bà cho là một cuốn truyện tình cờ, được đăng trên tạp chí Bách Khoa, năm 1965, đã gây nhiều tranh cãi, sóng gió.
Từ năm 1963, Nguyễn Thị Hoàng đã viết cho các báo Bách Khoa, Văn, Khởi Hành, Đồng Nai, Công Luận, Tin Sớm, Gió Nam, Tin Sống, Gào Thét.
Năm 1967, bà chủ trương nhà xuất bản Hoàng Đông Phương.
I Từ thơ đến truyện
Nguyễn Thị Hoàng là một người đa cảm, nên đã chọn thể loại thơ rất sớm để nói lên những xúc cảm của mình. Bà làm thơ từ năm 12 tuổi. Nhiều người còn nhớ bài thơ nổi tiếng Chi lạ rứa của Nguyễn Thị Hoàng. Một số bài thơ của bà được đăng trên Bách Khoa từ năm 1960, và trên tạp chí Văn từ năm 1963. Vào thời đó, bà đã có hai tập thơ xuất bản. Nguyễn Thị Hoàng quan niệm thơ như thế nào? Bà tuyên bố trên tạp chí Văn:
Tôi vẫn nghĩ thơ là phần tràn ngập của những xúc động tâm hồn. Tâm hồn có tuổi tác, có sống thực bằng đau khổ và hoan lạc thực, thì xúc động mới chín muồi và chất tràn ngập là thơ kia mới có giá trị thực. Thơ chỉ là hương thơm của những ngày tháng đẹp qua rồi, hãy cứ cho hương bay đi và tàn phai. Có đáng gì đâu mà cho in và lưu lại về sau?
Nói như thế có nghĩa là sau này mới có đủ điều kiện để làm thơ. Nhưng không thể phản phúc thơ bằng cách chìm lắng, mơ màng theo thơ bên cạnh một đời sống thực ngập tràn lo âu, băn khoăn, phấn đấu không ngừng nghỉ. Hãy để cho thơ chỉ còn là tiếng câm, những lúc nào đó, nói thầm với chính mình. Đôi khi tôi vẫn nghĩ, chính chất thơ thuở trước trong hồn còn vương vất đã làm cho tiểu thuyết của tôi, đúng hơn là những nhân vật, đối thoại hay khung cảnh trong tiểu thuyết tôi nhuốm tính chất không thực, xa vời, tìm đẹp hay không. (Tạp chí Văn, 16-7-1973, tr. 2)
Tóm lại, trước một cuộc sống khó khăn luôn luôn phải phấn đấu, thơ được cất giữ đâu đó nhưng vẫn ảnh hưởng đến cách viết tiểu thuyết của tác giả.
Vậy từ thơ Nguyễn Thị Hoàng đã bước qua thể loại truyện. Năm 1973, bà cho biết đã viết trên 30 cuốn truyện dài, nhưng chỉ mới xuất bản 23 cuốn. Về truyện ngắn có gần 40 truyện đã in, và 20 truyện còn ở dạng bản thảo.
Để có cái nhìn toàn diện về những sáng tác của Nguyễn Thị Hoàng từ đầu đến năm 1974, cuối thời miền Nam, xin liệt kê sau đây những tác phẩm của bà với tên nhà xuất bản:
Truyện dài:
Vòng Tay Học Trò (Kim Anh, 1966)
Tuổi Sài Gòn (Kim Anh, 1967)
Ngày Qua Bóng Tối (Văn, 1967)
Vào Nơi Gió Cát (Hoàng Đông Phương, 1967)
Về Trong Sương Mù (Thái Phương, 1968)
Một Ngày Rồi Thôi (Hoàng Đông Phương, 1969)
Cho Đến Khi Chiều Xuống (Gió, 1969)
Đất Hứa (Hoàng Đông Phương 1969)
Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về (Sống Mới, 1969)
Vực Nước Mắt (Gió, 1969)
Vết Sương Trên Ghế Đá Hồng (Hoàng Đông Phương, 1970)
Tiếng Hát Lên Trời (Xuân Hương, 1970)
Trời Xanh Trên Mái Cao (Tân Văn, 1970)
Bóng Người Thiên Thu (Hoàng Đông Phương, 1971)
Bóng Tối Cuối Cùng (Giao Điểm, 1971)
Tình Yêu, Địa Ngục (Nguyễn Đình Vượng, 1971)
Định Mệnh Còn Gõ Cửa (Đồng Nai, 1972)
Bây Giờ Và Mãi Mãi (Đời Mới, 1972)
Năm Tháng Đìu Hiu (Đời Mới, 1973)
Trời Xanh Không Còn Nữa (Đời Mới, 1973)
Tuần Trăng Mật Màu Xanh (Đồng Nai, 1973)
Buồn Như Đời Người (Đời Mới, 1974)
Chút Tình Xin Lãng Quên (Trương Vĩnh Ký, 1974)
Cuộc Tình Trong Ngục Thất (Nguyễn Đình Vượng, 1974)
Truyện ngắn:
Trên Thiên Đường Ký Ức (Hoàng Đông Phương, 1967)
Mảnh Trời Cuối Cùng (Hoàng Đông Phương, 1968)
Cho Những Mùa Xuân Phai (Văn Uyển, 1968)
Dưới Vầng Hoa Trắng (Sống Mới,?)
Bóng Lá Hồn Hoa (Văn, 1973)
Thơ:
Sầu Riêng (1960)
Kiếp Đam Mê (1961)
Với một số lượng tác phẩm như thế và một kinh nghiệm viết chất chứa trong khoảng 10 năm, Nguyễn Thị Hoàng đã có những quan niệm, những nhận xét, mong muốn về vấn đề sáng tác, phê bình, cũng như về những sinh hoạt văn hóa trong xã hội.
II Truyện nảy sinh và được xây dựng như thế nào?
Nguyễn Thị Hoàng quan niệm tác phẩm phản ánh một phần đời sống và tâm hồn mình. Bà cho rằng tác phẩm của bà không do một động lực nào từ bên ngoài xã hội, hoặc do ảnh hưởng của văn chương nước ngoài. Chính cuộc sống tự do với nhiều khó khăn, và những cơ hội được đi đây đi đó đã ảnh hưởng đến việc sáng tạo của bà.
Truyện nẩy mầm bằng một ý tưởng mà tác giả nuôi nấng cho nó lớn dần, cho đến khi nó có đủ hình hài thành một truyện ở vào cái thế không viết không được. Cái ý tưởng khởi điểm, làm mầm mống cho truyện, nó quan trọng hơn bề dày của cuốn truyện. Vậy khi truyện đã chín muồi thì tác giả có ý muốn thực hiện ngay. Tác giả viết như lên cơn xuất thần:
Đã ngồi lại viết, ý tưởng kia nhập vào xác hồn mình, ngồi như một người bị đồng nhập, không còn hay biết đến xung quanh, bất chấp cả mọi tiếng ồn ào và sinh hoạt khác, cứ đánh máy triền miên không ngưng nghỉ, vội vã, cuống quít, không kể cả những lỗi sai khi đánh máy, miễn là trút ra được những gì căng đầy trong trí, cùng lúc, cho thật nhiều, thật nhanh. Càng nhiều, càng nhanh, càng kịp tốc độ ý nghĩ càng tốt. Tôi như mê đi khi viết nên không nhận ra mình đang viết đang nghĩ gì. Chỉ khi đọc lại sách đã in, cảm tưởng như đọc của một người nào khác. Tôi chỉ đọc lại khi đã in, và đánh máy xong, không đủ thì giờ xem lại một đoạn hay một tác phẩm toàn thể, mà phải đưa ngay cho nhà in rồi. Cho nên mỗi lần đọc lại một truyện mới in là kinh hoảng vô cùng. Kinh hoảng vì mình đã làm việc với tốc độ dữ dội, và vì vậy bừa bãi quá, mà kết quả lại bất ngờ… Nghĩa là kỳ tới sẽ viết kỹ lưỡng hơn, nhưng giờ giấc và công việc hàng ngày cứ lôi cuốn theo dòng không đổi. Cho nên một thì giờ rảnh rỗi đủ để viết một truyện theo cách cuộc và nguyên tắc mong muốn không bao giờ có. Đành chấp nhận hủy bỏ tất cả mọi nguyên tắc. Và rồi thành thói quen… (Buổi nói chuyện của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Bộ mới, số 5, 15-7-1971, tr. 61)
Nguyễn Thị Hoàng quan niệm khung cảnh và nhân vật là nền tảng của “sân khấu”. Phần chính yếu là cái ý tưởng làm nên tia sáng chiếu rọi sân khấu; tuy nhiên tác giả cho rằng người ta thường thấy sân khấu và ít nhận ra cái tia sáng.
III Cách thức viết truyện
Về truyện dài thì bất cứ nơi nào, lúc nào Nguyễn Thị Hoàng cũng viết được. Bà có thể bỏ dở một thời gian ngắn hay dài, khi viết tiếp không cần đọc lại từ đầu.
Về truyện ngắn, lối làm việc khác hẳn. Tác giả phải viết một mạch cho xong truyện. Sau đó cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái hơn là đã xong một truyện dài. Bởi truyện ngắn xong là xong. Còn truyện dài, xong nhưng không bao giờ xong, là vì chưa nói hết được những điều quanh chủ đề đã lựa chọn, bắt gặp. Nếu bỏ dở nửa chừng, truyện ngắn sẽ bị vứt luôn không bao giờ tiếp nối. Phải như một chiêm bao song suốt, ngắt quãng không thể mơ lại những bóng hình đẹp đã mất rồi. (Văn, tr. 5).
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng thường làm việc trong hối hả, tất bật. Bà đánh máy thật nhanh, có khi không kịp đánh dấu. Mỗi ngày đánh từ 20 đến 30 trang, ném ra bừa bãi cho đến khi xong một truyện. Đôi khi 3, 4 bản thảo xong cùng một lúc, vì viết 3, 4 truyện cùng một lúc, sắp lại thứ tự mỗi bản thảo, sửa dấu. Rồi giao ngay cho nhà xuất bản. Bà kể: Không kịp nhìn lại để phân đoạn, cắt xén, thêm bớt bất cứ chỗ nào, thì làm sao có thể sửa ý và lời, nhận định lại dù chỉ một lần những gì vừa viết để có thể đổi thay… Cứ như thế, truyện này rồi đến truyện khác, lúc nào cũng tới tấp, hối hả, quay cuồng… (Văn, tr. 6)
Đương nhiên lối làm việc như thế không những không phải là lý tưởng mà còn nguy hiểm cho tiếng tăm của tác giả. Qua cách làm việc của Nguyễn Thị Hoàng yếu tố thời gian quá hiếm hoi, thiếu thời gian là một bất lợi. Sự việc này không chỉ xảy ra với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng mà còn với những nhà văn khác.
Lý do là độc giả miền Nam có nhu cầu đọc sách, đọc truyện, rất lớn, cho nên các nhà văn thường xuyên bị các báo, các nhà xuất bản thôi thúc không ngừng. Do đó họ phải tích cực làm việc để đáp ứng nhu cầu của độc giả. Điều này chứng tỏ trình độ văn hóa của người dân miền Nam đáng được lưu ý và đánh giá một cách thiết thực. Những độc giả nghèo thì đành lui tới những tiệm cho thuê sách.
Nguyễn Thị Hoàng ý thức mình làm việc trong một tình trạng hối hả, cấp bách. Trong buổi nói chuyện với sinh viên, năm 1971, bà khiêm nhường nhận xét rằng bà chưa viết được gì cả, rằng lối viết của bà quá bừa bãi, vội vàng, chưa có cuốn truyện nào hoàn toàn đầy đủ trước khi đăng báo hay đem in. Tuy nhiên bà nói nhờ thế được nóng bỏng, nguyên vẹn cảm xúc, ý tưởng. Bà cũng nhìn nhận không thể làm việc có tổ chức theo nguyên tắc về giờ giấc, trong tâm trạng tùy hứng như các nhà văn lão thành. Bà ý thức về khuyết điểm đó, nhưng là một thói quen khó thay đổi.
Ngày nay trong cảnh thanh bình, nhà văn tha hồ sáng tác có phương pháp, có thứ tự, trong một thời gian thư thái. Ngược lại trong hoàn cảnh chiến tranh thời đó, vấn đề an ninh, vấn đề mưu sinh khiến nhà văn bị rơi vào một tình trạng bấp bênh, một mình phải chống chọi với bao khó khăn.
IV Nhận xét về tác phẩm của mình và cảm nghĩ về giới phê bình
Vào những năm 1970, mặc dù là một nhà văn nổi tiếng, Nguyễn Thị Hoàng sáng suốt nhận thấy những tác phẩm của mình chưa đạt đến đích, chúng chỉ đang trong tình trạng dò dẫm, chưa đến cái mức mong ước, chưa phải lúc được đưa vào văn học sử. Tóm lại, tác phẩm của bà đang trên đường xây dựng.
Mong ước của bà về sáng tác trong tương lai là Dẹp bỏ những cuốn tiểu thuyết tình cảm bình thường kia đi, đi nhiều, ghi nhận, cảm xúc nhiều, và dựng những bộ trường thiên. Phải định hướng lại tất cả. (Văn, tr. 8)
Năm 1972, tạp chí Văn tổ chức một cuộc Hội thảo bàn tròn giữa 8 nhà văn thuộc nam giới: Mai Thảo, Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nhật Duật, Mặc Đỗ, Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu và Nguyễn Đình Toàn, về chủ đề: Chỗ đứng của các nhà văn nữ Việt Nam hiện đại và Đặc tính trong thế giới tiểu thuyết của họ. Nội dung cuộc Hội thảo được đăng trên tạp chí Văn, số 206.
Chỉ xin nhắc lại nơi đây ý kiến của một vài nhà văn liên quan đến nhà văn Nguyễn Thị Hoàng.
Mai Thảo mở đầu cuộc Hội thảo, tiếp theo vài nhà văn góp ý kiến, rồi đến Nguyễn Nhật Duật bắt đầu tấn công:
Ảnh hưởng rơi rớt mơ hồ của nền văn chương hiện sinh cũ, trước và sau 62 đã đóng góp vào sự thành hình tác phẩm của các nhà văn nữ này. Theo tôi, có lẽ là Nguyễn Thị Hoàng với cuốn Vòng Tay Học Trò đã diễn tả được thứ tình cảm đó. Tác phẩm của họ khi ra đời đã được chiều chuộng, và hình như sự chiều chuộng này đã lôi kéo theo sự có mặt của những nhà văn nữ khác. Nhưng người đọc đã thấy được gì trong sách của những nhà văn này? Những nội dung táo bạo không phải là tự do mà là sự buông thả. Kẻ nào dám sống với kinh nghiệm đời sống, họ sẽ là nhà văn. (…) Đề tài mà họ đụng chạm đến không khác những đề tài mà các nhà văn nam sử dụng. Đó chỉ là sản phẩm tất yếu của xã hội. Bởi vì không có Nguyễn Thị Hoàng này sẽ có một Nguyễn Thị Hoàng khác.
Mặc Đỗ nâng cao mức độ của cuộc thảo luận:
Tại sao chúng ta không nghĩ rằng còn có một yếu tố khác nữa làm thành tác phẩm của các nhà văn nữ: lòng yêu văn chương của họ?
Nguyễn Nhật Duật trả lời:
Có lẽ nên nói cho rõ rằng hoàn cảnh là cơ hội tốt đẹp làm nẩy sinh ra nền văn chương buông thả. Và công thức sẽ là Hoàn cảnh + Sự ham mê văn chương thành văn chương.
Nguyễn Nhật Duật cho rằng văn chương nữ phái bây giờ (…) gần được hiểu như là một chuyển đoạn, một trở thành, chứ không là một thành tựu.
Mai Thảo có cái nhìn bao quát hơn, thông cảm và ôn hòa hơn:
Khả năng văn chương nữ bây giờ cho phép họ đề cập đến tất cả mọi vấn đề. Có điều bất cứ cuộc giải thoát nào trước hết là một giải thoát thân xác, nhất là cho đàn bà. Rồi họ sẽ đề cập đến những chủ đề khác. Nhưng bây giờ họ đang nói đến thân xác, dù không phải nói như một người vô luân. Thân xác là chủ đề lớn nhất hiện nay. (Văn, số 206, tr. 9)
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng nghĩ gì về những lời tuyên bố đó, đặc biệt về những phê phán gắt gao của Nguyễn Nhật Duật?
Trong cuộc phỏng vấn của Văn, năm 1973, Nguyễn Thị Hoàng nói: Riêng tôi, nếu cho là tác phẩm của tôi táo bạo, này nọ… thì chỉ là một ấn tượng của nhà phê bình, phát xuất từ nhận định khi đọc cuốn Vòng Tay Học Trò. Bởi, nếu một nhà phê bình muốn là nhà phê bình thực sự chịu đọc (đọc qua thôi, không cần phải kỹ) những tác phẩm của tôi sau Vòng Tay Học Trò, sẽ không tìm thấy thoáng bóng dáng nào của vấn đề tình dục. Ý kiến trên cũng là ấn tượng chung khi đọc các nhà văn nữ, và riêng tôi thì Vòng Tay Học Trò, nhận định đã không được phối kiểm lại bằng theo dõi đầy đủ các tác phẩm khác (…) Thế nào cũng được chỉ mong sẽ có những nhà phê bình muốn làm việc phê bình cẩn thận và đúng mức.
Đối với giới phê bình, Nguyễn Thị Hoàng có một lập trường rất rõ ràng. Chẳng những bà không tin tưởng vào công việc của các nhà phê bình thời đó mà bà còn có một thái độ chỉ trích. Trong buổi nói chuyện với sinh viên năm 1971, bà phân biệt bốn hạng người phê bình: hạng người phê bình “già trầu” nhìn tác phẩm với những kiến thức, thành khiến xưa cũ, hạng người phê bình theo lập trường đảng phái hay chính trị, hạ bệ một tác giả vì tác giả theo đối phương, hạng người phê bình theo tinh thần đồng đội, khen chê một tác phẩm tùy theo tác phẩm có ở trong băng nhóm của mình hay không, và cuối cùng hạng người phê bình ba phải miễn có được chút tiền.
Tóm lại, Nguyễn Thị Hoàng bi quan và cho rằng không thấy ở xứ ta, vào thời đó, một lối phê bình đúng nghĩa.
V Những yếu tố ảnh hưởng đến sáng tạo văn chương
Nguyễn Thị Hoàng có một thái độ tiêu cực đối với văn chương dịch, bà cảm thấy hiện tượng sách dịch như một đe dọa cho văn chương nước nhà, khiến bà lo âu. Trước một số lượng sách dịch quá lớn, bà khảng khái lên tiếng bênh vực văn phẩm của các nhà văn thuộc mọi thế hệ, bà muốn bảo tồn văn hóa nước nhà. Nguyễn Thị Hoàng nói: Việc “nhập cảng văn chương” ồn ào, sôi nổi, đe dọa sinh hoạt văn chương trong nước. Hiện tượng sách dịch sẽ để lại dấu vết trong đời sống của những người đã chấp nhận nó.
Theo Nguyễn Thị Hoàng, có thể chấn chỉnh tình trạng này: phía độc giả, cần ý thức sách dịch không đem cái lợi cho văn hóa nước nhà mà còn hủy hoại giá trị sáng tạo của những nhà văn tên tuổi cũng như những nhà văn trẻ muốn tham dự và khởi nghiệp. Về phần các nhà xuất bản thì nên nghĩ đến văn hóa nước nhà bằng cách bớt mưu lợi về sách dịch.
Ở đây, cũng cần trở lại với vai trò của độc giả để hiểu rõ hiện tượng sách dịch. Vào thời đó, độc giả miền Nam đã trưởng thành, đọc sách dịch là do khao khát được biết cái mới, cái lạ của văn hóa Tây phương, là cơ hội để làm giàu thêm cái vốn tri thức của mình, và là cơ hội khám phá cái thế giới mênh mông bên ngoài. Vấn đề là cần ưu đãi sách trong nước, như Nguyễn Thị Hoàng mong muốn.
Trái với sách dịch, Nguyễn Thị Hoàng có một thái độ hứng khởi đối với phim ảnh, bà cho rằng nghệ thuật này có thể thuận lợi cho nguồn hứng của nhà văn. Những hình ảnh, nội dung của phim có thể là khởi điểm cho một cốt truyện. Bà bị nghệ thuật điện ảnh cuốn hút, và cho biết khi viết một số truyện, bà cũng nghĩ đến trường hợp quay thành phim những truyện đó, cho nên tình tiết, câu chuyện tương đối khớp với điện ảnh như các truyện: Tiếng hát lên trời, Tình yêu, Địa ngục, Định mệnh còn gõ cửa. Khi viết bà cũng nghĩ đến khuôn mặt của diễn viên nào thích hợp với nhân vật của truyện.
Việc sáng tạo của nhà văn tràn qua lĩnh vực điện ảnh là một điều rất bình thường; trong văn học Pháp có trường hợp của hai nhà văn Marguerite Duras và Alain Robbe–Grillet rất điển hình, từ văn chương họ bước qua điện ảnh. Văn chương và Điện ảnh là hai nghệ thuật rất gần nhau, mặc dù một bên dùng ngôn ngữ một bên dùng hình ảnh, màu sắc để kể truyện.
Vào thời văn học miền Nam, phong cách của Nguyễn Thị Hoàng nói lên bước tiến của người phụ nữ cầm bút đối diện với nhiều vấn đề của thời đại. Người phụ nữ cầm bút tự do, thẳng thắn phát biểu lập trường của mình về những vấn đề liên quan đến văn học; đồng thời sáng suốt nhìn nhận những thực hiện của mình chưa đi đến đâu. Sự không hài lòng này là một động lực thúc đẩy Nguyễn Thị Hoàng vươn cao hơn trong việc sáng tạo nghệ thuật, bất chấp những khó khăn, những phê phán thuận nghịch từ bên ngoài./-
Liễu Trương
Nguồn Văn Việt
Ghi chú:
· (1) Buổi nói chuyện của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Tạp chí Nghiên cứu Văn học, bộ mới, số 5, 15-07-1971.
· (2) Tạp chí Văn, phát hành ngày 16-07-1973.
Bóng Xưa …
Mưa như trút nước, đứng dưới mái che của một cửa hàng dọc con đường Trần Hưng Đạo- Mấy hôm nay, kể từ ngày về – Thuấn đã qua lại khá nhiều lần bởi đây là con đường chính. Những đổi thay không làm anh ngạc nhiên mà chỉ nằng nặng một cảm giác mất mát, buồn buồn..
Chỉ mới chiều hôm qua, anh đi bộ dọc con đường, nhớ lại những gì ngày ấy đã từng xảy ra với anh và Nguyệt nơi con đường thân quen này mà lòng ngồn ngộn tiếc nhớ ! Anh không ngờ rằng cuối con đường này có một quán cà phê, ở đó, người con gái năm xưa khép nép, thơ ngây…với chiếc áo dài trắng muốt, mái tóc dài đen mượt như nhung… Và anh, cậu trai học trò lún phún hàng ria với những nốt mụn dậy thì…đã đi lại hẹn hò, để rồi biền biệt cách xa không ai ngờ !
Một vài người qua đường ngoái nhìn anh vì dáng vóc khác lạ, nhìn lại mình anh cũng nhận thấy thế. Không dấu đi đâu được cái bên ngoài đổi thay bởi nhiều năm sống nơi xứ người, xa xôi và lạ lẫm ấy! Lời người bạn hôm qua vọng lại trong anh như một nhắc nhở đến thực tại: “Ủa, mi không biết Nguyệt vẫn ở đây à? Cái quán gần góc đường Trần Hưng Đạo – Quang Trung ngày xưa đó ! chừ khuya rồi, mai tới đó đi !”
Cơn mưa dầm lúc nặng lúc nhẹ… xem ra khó dứt ! Những cơn mưa lê thê cùng cái lạnh tê tái ngày nào hiện về trong anh, không bằng cái lạnh nơi anh đang định cư, nhưng không hiểu sao, anh so vai, cho hai tay vào túi quần, co ro như ngày nào đứng dưới hàng hiên của lớp học chờ mưa tạnh, và bên kia, Nguyệt , dù có áo mưa, cũng đang lặng lẽ đứng chờ…!
Trong đầu anh ngổn ngang những câu hỏi về Nguyệt ! – Sao cô ấy không di tản? Chồng cô ấy là ai? Có còn nhớ anh sau bấy nhiêu năm xa cách không tin thư?
Anh lại cảm thấy lạnh. Lạ, có lạnh gì bao nhiêu so với cái lạnh tuyết rơi hằng đống ở bên ấy, vậy mà anh…! Bên kia đường, có cửa hàng khép hờ cửa, anh băng qua với hy vọng mua được một cái áo mưa, hay một cái dù… Câu hỏi đon đã của cô chủ làm anh vui vui như vừa tìm lại một cái gì thân thiết, mất mát từ lâu:
” Chào anh, anh mua chi rứa anh? “
Thuấn mỉm cười, đứng ngây ra một lát mới nói được:
” Có dù không cô, bán cho tôi một cái?”
Cô hàng nhanh nhạy :
” Dạ có, anh ở bên Mỹ về hay ở trong Nam ra ?”.
Gần như cùng một lúc, câu nói vừa dứt thì một chiếc dù bung ra trước mặt anh, nhưng không nhìn dù, anh cố nhìn gương mặt của cô chủ:
“Sao quen thế nhĩ?”.
“Anh nói chi?!”
Cô vừa hỏi vừa nhìn anh chăm chú:
“Ôi chao anh Thuấn ! Anh Thuấn phải không?!”.
“Ừ, anh đây, Có phải Hòa không vậy?!”.
” Phải!”
Mắt Hòa rưng rưng, ôm lấy cánh tay anh:
“Chị Nguyệt ở gần đây, anh có biết không?”.
Thuấn gật đầu, nghe nghèn nghẹn trong họng: “Có!”.
Hòa gọi cô bé đang ngồi học bài ở chiếc bàn gần đó, từ nảy đến giờ đang tròn mắt chứng kiến cuộc hội ngộ bất ngờ của mẹ:
“Con coi nhà dùm mẹ, mẹ đưa bác Thuấn tới nhà dì Nguyệt, mẹ về liền”
Đoạn đường ngắn, những câu hỏi của Hòa lùng bùng bên tai anh. Sáng nay anh đã quên không uống thuốc, cũng quên mang theo như mọi khi ! Tim anh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực ! Cố xua đi nổi lo bệnh tật, Hòa qua đường , anh theo Hòa như đang trong cơn mộng du: “Chị Nguyệt ơi, có khách!”
Quán vắng ngắt, hai người khách ngồi ở chiếc bàn ngay cửa, đưa mắt nhìn anh lạ lẫm. Từ trong, Nguyệt hiện ra lặng lẽ như một chiếc bóng: ” Ai rứa hè?”.
Thuấn đứng im như vừa mọc lên từ nền nhà ẩm ướt, đôi mắt mờ đi kèm theo một cơn choáng ngắn ngủi, môi anh bật lên một tiếng gọi mơ hồ: “Nguyệt !”.
Không biết có phải nhờ cách phát âm quen thuộc của bao lần gọi tên nhau trong quá khứ, đã ăn sâu vào tiềm thức chị, hay gương mặt anh, tuy đổi thay nhưng vẫn giữ được nét nào đó quen thuộc mà từ dạo cách xa chị vẫn hình dung…
“Thuấn, anh Thuấn, lâu ni anh ở mô ?!” .
Đôi mi Nguyệt bất động, chỉ còn những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn, làm ngộp lồng ngực bệnh hoạn của Thuấn !
Ngồi xuống bàn, anh cẩn thận tựa lưng vào chiếc ghế, tìm sự vững vàng mong manh… ! Hòa tính tiền cho hai người khách xong cũng lặng lẻ ra về, để lại hai người… Bức tranh chép lại những đóa “Hoa hướng dương” nhòe đi trước mắt Thuấn, thành một mảng màu vàng ảm đạm, lung linh!
Nguyệt ngồi, hai tay gầy đan vào nhau đặt trên đôi chân bất động, gương mặt tròn, dịu dàng… xưa ấy, giờ vương chút già nua qua những vết nhăn ở đuôi mắt, mái tóc nhuộm không dấu nổi những sợi bạc ở chân tóc ! Đôi mắt Nguyệt xa xăm như đang nhìn về dĩ vãng, mà thời gian đã làm cho nhạt nhòa …
” Anh ấy đâu?”
Thuấn hỏi trống không làm Nguyệt ngơ ngác ! “Chồng em à?”.
Thuấn gật đầu. Nguyệt thở dài:
“Chia tay hai chục năm nay rồi, em không có con… Em bị bệnh !”
Lồng ngực của Thuấn lại co thắt ! Anh cũng đang bệnh, nhưng căn bệnh chỉ mới phát gần đây, nó không ảnh hưởng gì đến hạnh phúc gia đình của anh. Còn Nguyệt, sớm quá, nàng đã sống cô độc ngay giữa thanh xuân !
“Nguyệt ở một mình ngần ấy năm à?!” . ” Với mạ, mạ mới mất hai năm nay !”.
Lại chìm trong im lặng, lâu sau, Nguyệt hỏi Thuấn, nghe như từ một nơi xa xăm nào đó vọng lại:” Hồi nớ, lá thư cuối cùng em nhận được là anh đang ở Quảng Nam, rồi biệt tích cho đến chừ, răng ơ thờ rứa ?!”
Tim Thuấn như nát ra theo tiếng khóc rấm rứt của Nguyệt. Ký ức hiện về với tiếng bom, tiếng pháo, tiếng hô xung phong…và cả nổi sợ hãi lạnh người trước những ngọn đồi im lìm ẫn chứa chết chóc ở Quãng Nam, vào những ngày cuối của cuộc chiến… Rồi phi trường Đà nẵng, chen chúc lên tàu ở Long Hải…Thuấn cứ vật vờ theo dòng người như một phản xạ tự nhiên, không ý thức !!!
Bỗng thấy mình có mặt một nơi xa lạ ! Anh tìm quên bằng rượu, say nối say… Nguyệt không tưởng được anh đã nhớ nhung và tiếc nuối thể nào trong nổi tuyệt vọng! Những tháng ngày qua đi trong sự lầm lì của anh… Tưởng khó quên được ! Nhưng rồi thời gian trôi…
Thuấn cúi mặt giấu giọt nước mắt, anh nghèn nghẹn nói:”Anh xin lỗi ! Anh không biết làm sao liên lạc được với Nguyệt “. Lát sau, anh hỏi: “Sao Nguyệt không về ở với Hòa cho đỡ buồn ?”
Nguyệt lắc đầu nhè nhẹ,:” Em quen rồi !”. Chị đứng lên như chợt nhớ: ” Em quên , lấy nước cho anh nghe.”.
Nguyệt đi ra sau, Thuấn đứng lên bên quầy, có một bì thư nằm đó tình cờ, Thuấn móc ví, vội vàng cho vào mấy tờ giấy bạc. Khi Nguyệt trở ra, đỡ ly nước trên tay, anh đặt phong bì lên mặt quầy .
” Nguyệt, sang năm anh lại về!”.
Cầm chiếc bì thư, Nguyệt gấp đôi bỏ lại trong túi áo của Thuấn, nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai anh:
“Nếu vì công việc thì tùy anh, nhưng nếu về với Nguyệt thì đừng! Hôn em đi Thuấn … Hãy nhớ rằng em cũng đã từng quên anh khi quyết định lấy chồng! Không ai sống mãi với chiếc bóng của ký ức, dù đẹp mấy cũng chỉ là quá khứ…”.
Nguyệt ôm ghì lấy anh, Thuấn lịm đi trong nụ hôn dài muộn màng… rồi cả hai vòng tay lơi dần tiếc nuối !!!
Thuấn hỏi như trong cơn mê: “Không gặp lại nhau nữa ư ?!”. Nguyệt gật đầu :”Không, quên nhau đi, hãy sống thật hạnh phúc ,Thuấn ạ !”
Tháng VI – 2011.
Trạch An – Trần Hữu Hội.
Nhà Văn Lê Xuyên, Người Muôn Năm Cũ
Lê Xuyên
Lê Xuyên tên thật là Lê Bình Tăng, sanh ngày 1 tháng 11 năm 1927, tại Ô Môn, tỉnh Cần thơ; năm 1945 đã đậu DEPSI (Diplôme d’étude primaire superieure indochinoise). Từng hoạt động cho Đại Việt Quốc Dân Đảng. Ông vào nghề báo bằng sự giới thiệu của Vương Hữu Đức – Tổng Thư Ký tờ Sài Gòn Mai (1963) với trách nhiệm viết tiểu thuyết trường thiên. Trước đó ông chỉ làm thơ. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên có tên “Chú Tư Cầu” xuất bản năm 1965 và lập tức được đón nhận nồng nhiệt đến độ từ đó người ta gọi ông với biệt danh thân thương là: “Chú Tư Cầu Lê Xuyên”. Tuy nhiên những tác phẩm đi sau cũng bán rất chạy như: Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương (1965), Đêm Không Cùng (1966), Kinh Cầu Muống (1968), Vùng Bão Lửa (1969), Nguyệt Đồng Xoài (1970), v.v.
Trong thời gian từ năm 1963 tới 1975 ông đã từng giữ chức Tổng Thư Ký cho Dân Ý, Thời Thế, Thần Phong… và được xem như là người rất tận tụy, có trách nhiệm với vai trò nặng nề của mình.
Lê Xuyên, ngoài một nhà văn gốc miền Nam nổi tiếng, ông còn là một nhà báo tầm cỡ, yêu nghề, tận tụy với công việc, làm việc tại tòa soạn từ 5 giờ sáng cho tới 10 giờ tối. Vì vậy, lương của nhà báo Lê Xuyên khá cao hơn các Tổng Thư Ký Tòa Soạn của các nhật báo khác, 120.000 đồng một tháng, số tiền này, bà vợ của ông nhận lấy hết. Thấy vậy, ông chủ nhiệm Đại Dân Tộc Võ Long Triều tặng cho Lê Xuyên mỗi tháng 200.000 đồng để cho ông tiêu riêng (lúc bấy giờ, lương Thiếu tá, ngạch công chức hạng A, có vợ và 4 con mỗi tháng lãnh được gần 41.000 đồng).
Toàn thể văn phong Lê Xuyên đồng nhất và hầu như chỉ cần viết đối thoại đặc biệt Nam Bộ mà thành ra truyện, ra văn, ra tiểu thuyết đầy đủ mọi ngây thơ đến quỷ quyệt khôn lanh.
Sau biến cố năm 1975 ông đi học tập, sau đó được thả về sinh sống bằng nghề bán thuốc lá lẻ trên đường Nguyễn Kim, Chợ Lớn hay bỏ bánh kẹo để sống qua ngày dù rằng không thiếu cơ hội để ông có thể cầm viết trở lại.
Lê Xuyên đã qua đời ngày 2-3-2004, thọ 78 tuổi.
TÁC PHẨM:
Chú Tư Cầu (truyện dài, 1965)
Đêm Không Cùng (truyện dài, 1965)
Rặng Trâm Bầu (truyện dài, 1965)
Vợ Thầy Hương (truyện dài, 1965)
Chú Ba Công (truyện dài, 1966)
Ngôn Ngữ Là Gì? (1966)
Xinh (truyện dài, 1967)
Kinh Cầu Muống (truyện dài, 1968)
Vùng Bão Lửa (truyện dài, 1969)
Nguyệt Đồng Xoài (truyện dài, 1970)
Mặt Trời Đêm (truyện dài, 1975)
Nhà Văn Lê Xuyên, Người Muôn Năm Cũ
Nguyễn Mạnh Trinh
Lê Xuyên. Nhà văn hay nhà báo? Có người đã đặt câu hỏi như trên và quả thật rất phân vân khi định hình một chân dung văn chương như nhà văn viết với văn phong “rặt ròng” Nam Bộ hay một nhà báo thuộc loại “đàn anh” trong giới truyền thông báo chí miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ông còn là một tác giả nổi tiếng với biệt hiệu “Chú Tư Cầu”, tên một tác phẩm của ông đã thành danh. Từ “Chú Tư Cầu” đến “Ðêm Không Cùng”, từ “Vợ Thầy Hương” đến “Vùng Bão Lửa”, từ “Kinh Cầu Muống” đến “Nguyệt Ðồng Xoài”, những tiểu thuyết của ông viết về những cuộc đời của các nhân vật của một thời thế hỗn loạn, của những người dân tuy cục mịch ít học nhưng tâm tính đơn sơ. Có khi họ là những mẫu người cao thượng không ngờ nhưng cũng có lúc là những người sống gần bản năng nhất. Ðặc biệt, ông đã sử dụng phương cách dùng đối thoại để chuyên chở ý tình của nhân vật và qua đó gián tiếp tả tình tả cảnh một cách đặc biệt tạo hấp dẫn cho người đọc.
Viết “feuilleton” cho báo hàng ngày thời đó không phải dễ dàng mà còn là một nghệ thuật. Trường thiên tiểu thuyết của ông dường như tranh đua một cách gián tiếp với truyện kiếm hiệp Kim Dung lúc đó đang ở tuyệt đỉnh chú ý của mọi người, ở đâu cũng nói chuyện Cô gái Ðồ Long, Anh Hùng Xạ Ðiêu thì những trường thiên tiểu thuyết như “Chú Tư Cầu” như “Ðêm Không Cùng” phải có một hấp lực rất lớn. Số lượng độc giả hàng ngày của các nhật báo là mức đo sự lôi cuốn của tờ báo mà những truyện nằm ở trang trong là một biểu hiện. Tiểu thuyết của Lê Xuyên có những đời sống chân chất ruộng đồng, những suy nghĩ giản dị của người bình dân, những ngôn ngữ của đời bình thường nhưng vào trong đối thoại truyện lại thành những lôi cuốn mở ra những cảm giác sẵn có cho những cuộc tình nóng bỏng đầy ắp dục tình. Ðối thoại của Lê Xuyên cứ nửa kín nửa hở, cứ vừa đố vừa giảng một cách “tửng tửng” nhưng tự nhiên gợi đến những cảm xúc của thịt da, của những giây phút nóng hổi của cuộc sống. Nhưng chẳng phải là ngôn ngữ của trụy lạc khiêu dâm. Mà còn có một điều gì ẩn khuất của con người, của nét nhân bản phảng phất.
Nhớ đến nhà văn Lê Xuyên, thì tự nhiên người đọc nhớ ngay đến tiểu thuyết Chú Tư Cầu nhưng thực ra vẫn còn những tiểu thuyết dài viết từng ngày đăng ở trang trong các nhật báo cũng lơi cuốn độc giả không kém như Nguyệt Đồng Xoài, Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương, Kinh Cầu Muống… với một bút pháp mới để tạo một thể văn thích hợp để lôi cuốn độc giả theo dõi diễn biến cốt truyện hàng ngày với phong cách vừa đố vừa giảng.
Một ông vua viết tiểu thuyết feuilleton là nhà văn Mai Thảo đã viết về mục đích muốn tới và dụng tâm cuối cùng:
“Tuy đăng từng ngày, mỗi ngày một tiểu đoạn nhưng cách viết và lối dựng truyện phải là những bí quyết sắc bén giam nhốt không rời thần trí và ham thích người đọc, đã bước chân qua cửa truyện là không thể trở lui, phải từng số từng ngày đợi chờ đọc tiếp. Người người viết truyện trữ tình đăng trên nhật báo bây giờ thảy đều mơ tưởng trở thành một Kim Dung kiếm hiệp. Một mở đầu đã dầy dặc những tình tiết bốc cháy từ những mê đắm thứ nhất. Chuyển đoạn vừa đố vừa giảng. Chuyện đang chân trời hiện tại thoắt đã chân trời tương lai. Đang tả những diễn biến bây giờ, bằng hồi tưởng, đột ngột kéo ngược hết về quá khứ. Bất ngờ cắt đứt một xáo trộn, đóng khung trong một cảnh trí này, ném bổng xáo trộn ấy vào một cảnh trí hoàn toàn khác biệt. Đang thuật đang tả chuyển thành viết thư nghiêng sang nhật ký. Và thuật tả cũng luôn luôn phải đối thoại len vào. Trăm nghìn xảo thuật hâm nóng cảm giác làm ngỡ ngàng mọi tưởng trước, sai lạc mọi phán đoán ấy đã được chuyên chở bộn bề vào tiểu thuyết đăng báo chúng ta hiện nay, bằng con đường điện ảnh bằng vay mượn và phối hợp cách thức viết với cách thực hiện phim ảnh. Nói chung đó là kỹ thuật của loại phim truyện trinh thám, nghẹt thở, giật gân, bao giờ cũng tạo được tác dụng làm căng thẳng giác quanh ta.
Từ ngòi bút Lê Xuyên và tiểu thuyết Lê Xuyên vì cũng viết ra trước hết cho báo hàng ngày, chúng ta cũng thấy thấp thoáng sự nhập nội vào văn thể những kỹ thuật ấy. Nhưng Lê Xuyên không chỉ giới hạn khả năng trước tác của mình vào sử dụng kỹ thuật tiểu xảo. Và tiểu thuyết Lê Xuyên thật đông người đọc, tất phải chứa đựng một sắc thái độc đáo nào? Câu trả lời là có. Đó là không khí, cảnh trí, những khuôn mặt điển hình, những cuộc đời đặc biệt, những danh từ địa phương, cùng lối miêu tả sự việc bằng đối thoại cực kỳ linh động chỉ thấy ở tiểu thuyết Lê Xuyên”
Nhà văn Lê Xuyên mất ngày 2 tháng 3 năm 2004, đến nay là mười bốn năm. Thời gian qua đi, nhưng vóc dáng của ông vẫn không phai trong lòng những người yêu văn chương ở trong nước và hải ngoại. Mặc dù, hệ thống truyền thông báo chí trong nước không đề cập đến ông và lạnh lùng coi như không có nhà văn nhà báo Lê Xuyên nhưng trong dư luận những người cầm bút còn ở lại vẫn vương vấn một tình cảm vừa yêu thương vừa kính phục về một kẻ sĩ Việt Nam. Còn ở hải ngoại, ngay khi ông vừa mất đã có những buổi tưởng niệm và mỗi năm đến ngày giỗ của ông đều có những bài viết đầy trân trọng và tình cảm nhớ về một người đã khuất. Riêng cá nhân tôi, khi tuổi vừa lớn lên, học ở Trung Học, đã có thời say mê truyện kiếm hiệp Kim Dung cũng y như say mê “Chú Tư Cầu”, như “Ðêm Không Cùng”. Những nhân vật của ông mở ra cho tôi hiểu biết thêm những cuộc sống phong phú của đồng quê, của những người bình dân Nam Bộ. Là một người nguyên gốc miền Bắc di cư vào Nam, tôi đã thích thú xiết bao với những ngôn từ của Chú Tư Cầu đặc thù địa phương như “nói thẳng bạch tuột”, “rắc rối không biết đâu mà rờ”, “mấy con nập nợn”, “làm cho xất bất xang bang”, “anh làm cái kiểu đó thì mụ nội em cũng lìa”, “ca mùi tận mạng”, “giận lẫy sẩy cùi”,… Những ngôn từ ấy, nghe không quen tai nhưng hấp dẫn làm sao!
Như vậy, chân dung văn học nào biểu hiện được chính xác tác giả Lê Xuyên? Nhà văn hay nhà báo? Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nói trong buổi lễ tưởng niệm đầu tiên sau khi tác giả Chú Tư Cầu ra đi về nghề văn và nghiệp báo đã song hành rất tốt đẹp. Theo ông, trong số tất cả những nhà văn viết truyện dài từng kỳ đăng trên nhật báo hàng ngày thì tác giả Lê Xuyên là người viết hấp dẫn, khéo léo dẫn dắt cốt truyện đến lúc tận cùng kết cuộc với kỹ thuật mới lạ đầy bất ngờ và cũng không kém phần gợi cảm.
Trước năm 1975, khi trả lời câu hỏi phỏng vấn của nhà văn Viên Linh, thì nhà văn Lê Xuyên cho biết việc ông bước vào nghề báo cũng như viết truyện dài hàng ngày “bất quá chỉ là một vấn đề số mạng” và trường thiên tiểu thuyết Chú Tư Cầu chỉ là một sự góp nhặt những chuyện tình được kể trong khi bị sống ở trong vòng tù giam.
“Ðành rằng hồi còn nhỏ, hồi còn đi học tôi cũng thích làm văn, làm thơ nhưng quả tình tôi không ngờ có ngày mình lọt được vô nghề này. Truyện dài đầu tay của tôi là Chú Tư Cầu đăng trên nhựt báo Sài Gòn Mai. Ðang thất nghiệp, tôi được anh Vương Hữu Ðức (lúc bấy giờ là Tổng Thư Ký nhựt báo Sài Gòn Mai) gọi tới để làm phụ với anh và cũng chính anh Ðức đã bảo tôi viết cho tờ báo SGM một truyện dài “đồng quê Miền Nam”. Có lẽ vì tin tưởng phần nào ở tôi, và chắc do khiếu đánh hơi nhà nghề nên anh Ðức chỉ “hạ lịnh” vỏn vẹn cho tôi như thế. Và tôi bắt đầu viết Chú Tư Cầu.
Cũng may là hồi còn kẹt trong tù, tôi được mấy anh em ở miệt quê kể cho nghe rất nhiều câu chuyện sống với đầy đủ tình tiết (mà Chú Tư Cầu là một) và trước khi bị kẹt có một thời gian tôi về ẩn náu tại miền Tây, nên chụp vô chuyện Chú Tư Cầu là tôi viết phăng tới liền, chớ nếu không thì “tang gia bối rối” biết bao nhiêu.
Giả sử lúc bấy giờ anh Ðức bảo tôi viết truyện gián điệp hay truyện ma gì đó tôi cũng viết như thường. Như vậy, chẳng do “phần số” chẳng do “thiên định” là gì?”
Nhà văn Mai Thảo trong bài tựa tiểu thuyết Chú Tư Cầu khi tái bản ở hải ngoại đã viết:
“Ðó là không khí, cảnh trí, những khuôn mặt điển hình, những cuộc đời đặc biệt, những danh từ địa phương, cùng lối miêu tả sự việc bằng đối thoại cực kỳ linh động chỉ thấy ở tiểu thuyết của Lê Xuyên.
Không khí, bầu trời của văn truyện Lê Xuyên là một không khí rất nước Việt Miền Nam, một bầu trời rất miền Nam thôn dã. Ðang nắng lửa chói chang, chợt đã mưa rào đột ngột. Phút trước trời còn ngọc thạch, phút sau đã sầm tối mây đen. Kinh rạch chằng chịt, ngòi rạch lang thang. Trong ẩm ướt nhiệt đới, lúa mạ tốt tươi trùm lan thành nườm nượp mùa màng. Trời, đất, cỏ, hoa nồng cháy một hiện tượng giao tình thường trực. Không khí có sấm chớp trên kia và đời sống dưới này là rạo rực hình hài, là thần kinh bốc lửa. Như Cửu Long nước đầy, thiên nhiên và địa hình miền Nam đã là những phát hiện tự nhiên chan hòa sức sống. Bằng những liên hệ biện chứng với ngoại giới, người và đời sống của người, bởi vậy cũng đồng dáng với thiên nhiên và đồng tình với địa hình. Người đọc đã hiểu tại sao là nhân vật và những diễn biến tiểu thuyết Lê Xuyên thật hiếm ít những dấu tích và những đặc thù của văn minh phường phố. Tư Cầu có thể một bữa kia ra tỉnh. Ði coi hát bóng, vào nghe nhạc phòng trà. Nhưng nguồn gốc, lẽ phải, hạnh phúc và cái làm nên thế quân bình cho đời sống Tư Cầu và những người đàn bà trở thành đối tượng cho bản năng Tư Cầu bốc cháy là ở giữa cái lồng lộng phơi phới đó của trời là màn, chiếu là đất, cỏ cây bằng hữu và trăng sao tình nhân. Thôn dã miền Nam trong tiểu thuyết Lê Xuyên không rối rắm những phong tục lâu đời, chồng chất những tập quán cố định. Như ta thấy ở Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, hay ở những tiểu thuyết thôn quê, tiểu thuyết phong tục tiền chiến của Nam Cao, Kim Lân, Tô Hoài. Ðó là một thôn dã mộc mạc hơn còn đằm thắm cái đằm thắm ngu ngơ của sơ khai và tiền sử tính. Nước chảy không ngăn dòng, Cỏ mọc trùm bãi bờ. Ðó là một trạng thái tự do của con người, mặc dầu là một tự do thấp và vô thức. Nhân vật tiểu thuyết của Lê Xuyên không chạy theo sức xô đẩy của tâm hồn, bởi vì không nâng đời sống tới những rung động tâm hồn, mà ném mình vào những òa vỡ tự nhiên của dục tính.
Nhiều người cho rằng, truyện Lê Xuyên hay nhất ở những phần đối thoại. Ðối thoại có chuyên chở sự việc, có phân tích tâm lý, nghĩa là có thuật có tả ở trong. Nhận xét trên đúng, và cũng dễ hiểu. Ngôn ngữ tiểu thuyết Lê Xuyên là thứ nói chuyện không biến hình bằng những điều chỉnh bút pháp cho chuốt lọc hay văn hoa bay bướm hơn, cho nên cái khó naht của nghệ thuật viết truyện là đối thoại thì Lê Xuyên lại thành công tốt đẹp nhất ở đó.”
Tiểu thuyết Chú Tư Cầu khá dài, bố cục gồm 5 phần và đoạn kết. Nhân vật chính là Chú Tư Cầu và bốn người tình trong bối cảnh của những vùng địa phương của địa lý khác nhau. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu cái vóc dáng nông dân vẫn không trộn lẫn với người bản xứ. Cuộc đời trôi giạt từ hết cuộc tình này sang cuộc tình khác mà anh chàng chăn vịt của vùng sông nước xưa kia đã trải qua bao nhiêu biến cố của thời thế. Tư Cầu không tán tỉnh đàn bà, anh đối xử với bất cứ ai cũng bằng cái tình cảm chân thật hơi chút ngây thơ và chính điều đó đã làm thành nét hấp dẫn phụ nữ. Những người đàn bà yêu Tư Cầu đều là những người nữ có cá tính mạnh và có nét đẹp lãng mạn riêng có mùi vị của đồng quê của những đóa hoa đồng nội.
Người tình đầu tiên cô gái hàng xóm ngày xưa ở Rạch Chiếc, người yêu Tư Cầu, trốn gia đình theo người tình lên Sài Gòn để tránh cuộc hôn nhân do gia đình sắp đặt nhưng lại bỏ rơi anh chàng khờ khạo để theo một người tình Hoa kiều giàu có hơn. Phấn yêu Tư Cầu của mối tình trẻ thơ nhưng đầy tưởng tượng của xác thịt. Những đoạn đối thoại nóng bỏng, như cách xưng hô “mày và tao” biến thành “anh và em” cùng với thiên nhiên trời trăng mây nước đã thành một khúc tình ca đầy chất lãng mạn nhưng đầy ắp cảm xúc da thịt nam nữ.
Trên con đường đi lên Sài Gòn, Phấn gặp anh chàng khách trú tên Lâm Sanh và bị thuyết phục để bỏ Tư Cầu với lý do một người thật thà đôn hậu như Tư Cầu khó lòng sống được ở một nơi đầy cạm bẫy như thành phố Sài Gòn. Phấn đánh lừa Tư Cầu mua vé tàu đò cho Tư Cầu trở lại Trà Ôn trong khi Phấn và Lâm Sanh lên Sài Gòn sống với nhau.
Nhưng định mệnh xui khiến khiến Tư Cầu lại đi lạc lên Nam Vang và sống bạt mạng với đám côn đồ giang hồ và được cô Ba Xá Lỵ một nữ chúa dao búa xứ Chùa Tháp yêu thương. Hai người say mê nhau, một mối tình pha lẫn giữa xác thịt và tình cảm, giữa đạo lý của giới giang hồ và tính nhân bản của con người chất phác. Một thời gian khi đã dành dụm được một số tiền Tư Cầu nhớ nhà nên rủ Ba Xá Lỵ về sống ở Rạch Chiếc nhưng cô này từ chối vì nghĩ rằng người như cô đã quen giang hồ rồi sẽ không họp với đời sống quê mùa rẫy bái của gia đình Tư Cầu.
Về quê, Tư Cầu biết chuyện Phấn đã bỏ đi theo chồng Khách Trú và có một đứa con với mình. Sau đó anh lấy vợ một cô gái hai dòng máu Miên Việt tên Thơm và tiếp theo là một đời sống vợ chồng đầy ắp dục tính của bản năng trai gái. Lúc ban đầu thì cũng có hơi trục trặc nhưng về sau là những pha làm tình sống động tuy chỉ qua ngôn ngữ chay nhưng tạo được sự tưởng tượng nóng bỏng qua lối diễn tả. Nhưng rồi dân Miên nổi loạn thổ dậy hãm hiếp Thơm đến chết. Tư Cầu trả thù rồi gia nhập quân kháng chiến chống Pháp ở địa phương nhưng bị bắt và cầm tù tại Sài Gòn. Tình cờ gặp Ba Xá Lỵ là người vợ hờ của viên Trung Úy Pháp coi tù và tình cờ nữa gặp lại Phấn với đứa con của mình. Hai người đàn bà cùng nhau giúp Tư Cầu vượt ngục. Sau khi gia nhập quân kháng chiến, Tư Cầu phục kích giết được viên Trung Úy Pháp nhưng không cứu được Ba Xá Lỵ vì đã bị tên chính trị viên giết rồi.
Và người đàn bà thứ tư là Thắm, một mối tình mà anh ta nghĩ có nhiều sự êm đềm nhất. Trong khi Thơm đang mang bầu thì Tư Cầu phục kích và đã tha mạng cho một viên “quan một” vì lý do anh quan một này cũng có vợ sắp đến ngày sinh nở. Kết cuộc khi vừa thả người tù binh xong thì Tư Cầu trúng đạn đại bác và hy sinh.
Truyện dài Chú Tư Cầu được đang hàng ngày trên nhật báo Sài Gòn Mai suốt mấy năm và trở thành một tiểu thuyết được cả giới bình dân lẫn trí thức ưa thích. Với văn phong độc đáo mà cá tính của người dân Nam Bộ được tỏ lộ rõ nét, dù ở không gian nào, ở Rạch Chiếc xa xăm hay Sài Gòn, Nam Vang náo nhiệt thì vẫn là những phương trời mà con người đôn hậu Tư Cầu, đã sống chân thành theo một đạo đức mà theo tác giả Lê Xuyên là lẽ phải trên đời…
Tại sao nhà văn Nguyễn Mộng Giác lại phát biểu Lê Xuyên đi song hành một cách tốt đẹp giữa nghề báo và nghiệp văn. Nhà báo Vũ Ánh coi Lê Xuyên là một vị thầy đáng kính nhất của ông trong nghề làm báo. Ông là một ký giả tận tụy, hết lòng chỉ dạy đàn em với cả khả năng của mình. Ông đã từng làm Tổng Thư Ký một số nhật báo ở Sài Gòn như Dân Ý, Thời Thế, Thần Phong, Ðại Dân Tộc… trong suốt những tháng ngày đầy biến động của chính trường Việt Nam và chiến tranh bùng nổ lớn.
Nhà báo Vũ Ánh viết: ”Ngày Mồng Một tháng Giêng năm 1966, tôi bước vào làng báo viết trong khi vẫn tiếp tục làm công việc của một phóng viên báo nói (truyền thanh). Cả hai thứ tôi đều mê cả. Người đưa tôi vào làng báo viết là nhà văn Lê Xuyên tức “Chú Tư Cầu”. Chính ở ông tôi đã học được phương pháp hệ thống hóa kiến thức thời sự và xã hội cần thiết cho nghề báo viết nhất là cách thực hiện trang trong của một tờ nhật báo. Cho đến khi vào làm Tổng Thư Ký cho tờ Dân ý ông đã đưa tôi làm việc với ông với tư cách một phóng viên làm tin địa phương…
…Cái hấp dẫn nhất nơi Lê Xuyên là nhân cách, sự hòa nhã nhưng hết sức cương quyết của ông. Tôi đi tù về năm 1988 gặp lại ông và chứng kiến nhiều người bạn cũ đang cộng tác với báo chí chế độ mới đến rủ ông viết lại nhưng ông đã từ chối và tiếp tục thu tấm thân còm cõi với chiếc mũ “phở” sau quầy thuốc lá và bữa nào cũng đói cả…”
Nhà văn Hồ Nam cũng viết về nhà báo Lê Xuyên: “Lê Xuyên (Lê Bình Tăng) vào đời đi làm chính trị phiêu bạc giang hồ từ đất Nam Kỳ Lục Tỉnh ra tận ngoài Bắc chống Tây để giải phóng dân tộc bị Tây bắt bỏ tù. Nhờ ở tù mà ra tù cưới được một cô vợ Bắc Kỳ vào loại sắc nước hương trời. Ra tù Lê Xuyên cưới vợ xong bèn trở về miền Nam làm báo cùng Bảy Bốp Phạm Thái (tác giả truyện Năm Người Thanh Niên từng được giải thưởng văn chương của Tự Lực Văn Ðoàn). Vào nghề báo ban đầu ông chưa ký bút hiệu Lê Xuyên mà ký bút hiệu Lê Nguyên, cũng chưa viết tiểu thuyết mà viết bình luận chính trị. Giữa thập niên 1950 bình luận gia Lê Nguyên khá nổi nhưng vì tổ chức chính trị của ông chống đối quyết liệt chế độ gia đình trị của Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm nên tờ báo của tổ chức của Lê Nguyên bị đóng cửa. Bảy Bốp Phạm Thái nhanh chân chạy được sang Nam Vang sống lưu vong. Lê Nguyên bị mật vụ của chế độ Ngô Ðình Diệm bắt và nhốt trong Khám Chí Hòa nhiều năm.
Lê Nguyên nằm Chí Hòa năm năm, lăn lóc chung đụng với đủ hạng người từ thượng vàng đến hạ cám. Lê Nguyên chỉ nghe chuyện tiếu lâm và không nói năng gì. Năm 1961, sau cuộc binh biến, bác sĩ Trần Kim Tuyến chỉ huy mật vụ của chế độ muốn có những tờ báo của chế độ nên cho người liên lạc với nhà văn Nhị Lang đang lưu vong về làm chủ bút tờ báo Sài Gòn Mai. Nhị Lang trả lời rằng chỉ làm chủ bút Sài Gòn Mai với điều kiện phải vô Chí Hòa đem Lê Bình Tăng về làm thư ký tòa soạn. Bác sĩ Tuyến đồng ý với Nhị Lang nhưng đòi Nhị Lang phải hứa rằng ra tù Lê Bình Tăng làm báo không được viết bình luận thời sự nữa vì Tổng Thống không ưa văn bình luận của Lê Bình Tăng…”.
Và từ năm 1961 đến ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa 30 tháng Tư năm 1975, qua bao nhiêu là biến động và trải qua nhiều thời kỳ làm Tổng Thư Ký các nhật báo có nhiều độc giả của Thủ đô Sài Gòn, chân dung nhà báo Lê Xuyên lại càng trở thành một khuôn mặt đáng kể của làng truyền thông Việt Nam. Với lòng tận tụy yêu nghề, như nghiệp báo chí là một bổn phận thiêng liêng, những đóng góp của ông là thành quả không phải của riêng một mình cá nhân Lê Xuyên mà còn là của chung làng báo Việt Nam. Bên cạnh những khuôn mặt ham tiền vô lương tâm cũng còn có những kẻ sĩ bất khuất.
Sau năm 1975, vì là nhà văn vừa là nhà báo lại là một lãnh tụ của một đảng phái quốc gia (ông thuộc Ðại Việt Quốc Dân Ðảng của đảng trưởng Trương Tử Anh) nên ngay sau tháng 5 /1975 bị Cộng sản nhốt vào đề lao Gia Ðịnh. Theo những người cùng bị giam chung thì mặc dù được những tên “tù cha” thường là dân dao búa kính trọng dành riêng những đặc ân trong tù nhưng Lê Xuyên là người tù ít nói nhất và thường quay mặt vào tường lặng thinh suy tư. Ra tù, Lê Xuyên cũng ngồi bán thuốc lá lẻ nhìn đời ở lề đường Ngô Quyền sống thiếu hụt và thường xuyên đói ăn thèm uống. Nhưng ông vẫn mặc kệ thiên hạ bon chen. Nhiều người đến gạ in lại sách hoặc viết để kiếm thêm tiền nhưng ông từ chối. Ông nói nhà văn Lê Xuyên đã chết rồi sau ngày 30 tháng năm 1975.
Nhà văn Văn Quang đã viết về những ngày cuối đời của tác giả Chú Tư Cầu. Bây giờ đọc lại như một cách thế tưởng niệm.
“Hơn mười năm sau khi tôi ở trại cải tạo ra, Thanh Thương Hồng dẫn tôi đến thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ ở một góc phố. Chiếc quầy thuốc bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò của anh. Chúng tôi nhìn nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình lúc này. Anh chớp mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi.
– Trông ông vẫn cứ phong độ như ngày nào
Tôi thẳng thừng thương bạn:
– Trông chán bỏ mẹ. Đ… khỏe được chứ…
Hai bàn tay bạn tôi run lên, lật bật đút chiếc chìa khĩa vào ngăn tủ kính để mấy gói ba số năm bán lẻ (hồi đó ba số năm quý lắm)
– Hút thuốc lá không?
– Không, tớ hút thuốc lào quen rồi, về đây hút thứ nặng hơn mới đủ đô.
Thanh Thương Hồng rủ sang bên con hẻm phía trước ăn sáng. Đó là con hẻm lối đi vào một ngôi chùa hay ngôi đình gì đó. Không có hủ tíu Lê Xuyên phải chạy đi gọi ở một nơi nào quen bán chịu cho anh ở gần đó. Lê Xuyên trở lại với con người thật của anh. Vẫn hiền lành, cười tủm và chân quê. Phải nhìn thấy cái cười tủm của anh mới biết tại sao anh viết về những cuộc tình của những đôi trai gái đồng ruộng miền Nam hay đến như thế, láu cá đến như thế. Tôi nhủ thầm. Thằng cha này tẩm ngẩm tầm ngầm mà ghê lắm đấy. Nó không nói mà chỉ viết nên nó viết được nhiều hơn mình. Chỉ có nó mới viết được những “dòng chảy ngầm” của trai gái thôn quê miền Nam thật đến thế và hấp dẫn đến thế. Lê Xuyên khác với một số những cây bút hồn tồn Nam Bộ như Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam ở chính cái “thật” của anh, tiểu thuyết của anh không màu mè, không lý luận, không khoác bộ áo nghiên cứu sưu tầm về phong tục tập quán dưới hình thức này hay dáng vẻ khác. Từng động tác, từng thái độ, từng lối ứng xử trong nhân vật của anh cứ như những con người thật lồ lộ đang ở trước mặt chúng ta vậy. Trước mặt tôi, ông già Lê Xuyên vẫn còn cái hóm hỉnh riêng nhưng bây giờ thì như anh nói: ”Đếch viết nữa…” Tôi hỏi viết không được hay không thích. Câu trả lời của anh gọn lỏn: ”Bỏ đi Tám…”. Tôi không thể hiểu nổi ba chữ ”bỏ đi Tám” mà anh dùng. Có một nỗi chua chát nào đó trong cái tâm sự thật của anh. Đến cái thẻ chứng minh nhân dân anh cũng không muốn làm nên anh ở nhà anh mà không có tên trong sổ hộ khẩu, cứ như ở lậu, công dân lậu. Thái độ ấy có đồng nghĩa với sự “bỏ đi Tám” của anh không? Chỉ có anh mới hiểu và bây giờ anh mang theo anh về thế giới bên kia…
Buổi chiều ngày 5 tháng 3, đúng hai giờ lễ động quan bắt đầu, giữa trời nắng chang chang, chúng tôi đưa người quá cố đến nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Có rất nhiều người bên hè phố lặng lẽ tiễn đưa anh. Đám tang nhà văn Lê Xuyên không ồn ào như đám tang của những nhà nghệ sĩ mà ở đây người ta cho rằng đó là những “nhà nghệ sĩ lớn”. Nhưng những con người thầm lặng ấy đưa tiễn anh với tất cả tấm lòng mình. Họ không nói gì không có kèn saxo như trong đám tang Trịnh Công Sơn không có những giọt nước mắt dài ngắn thở than của những danh ca nghệ sĩ không có những bài điếu văn “lâm ly bi đát” nhưng đám tang Lê Xuyên đầy ắp những tình yêu thương từ xa xưa đọng lại, từ bốn phương tám hướng lãng đãng bay về phủ kín chân trời Sài Gòn.”
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Văn Việt
Tống Biệt Hành
Image
Tự Hào SÀI GÒN
SAIGON là địa danh 1 trong 40 thành phố nổi tiếng trên thế giới được khắc tên trên mặt đồng hồ Thuỵ Sĩ từ những năm 1953, trong khi Hà nội không có.
Chiều qua uống cafe với đứa em, nó có sở thích mê đồng hồ như mình. Em cho xem hình cái đồng hồ và hỏi có biết tin thú vị này không? Xem xong thật sự mình rất rất ngạc nhiên xen lẫn tự hào cái tên SAIGON được khắc trên mặt đồng hồ của một thương hiệu nổi tiếng nhất thế giới – PATEK PHILIPPE – model 2523 của Thuỵ Sĩ.
Tin quá hay và quá thú vị không phải ai mê đồng hồ cũng biết. Tối mình về nhà lật đật “lục tung” internet tìm hiểu mới “nổi da gà”, khi biết nó được sản xuất năm 1953, khi miền Nam lúc đó do Pháp đô hộ, nhưng thành phố SAIGON được khắc tên 1 trong 24 múi giờ thế giới. Cái tên được ngạo ngễ đứng chung với 40 thành phố nổi tiếng trên thế giới: Sydney, Montreal, Moscow, New York, California, Rio De Janeiro, London, Paris, Geneva, Tokyo, có cả Singapore (mình hơi thắc mắc nước Singapore thành lập năm 1965, nhưng đồng hồ này lại được sản xuất năm 1953 ?).
30/4: Chu Tử Và Viên Đạn Định Mệnh
Chu Tử là bút hiệu của Chu Văn Bình, một nhà văn, nhà báo. Ông được biết đến là chủ nhiệm nhật báo Sống. Cuốn tiểu thuyết Yêu và Ghen. Tác phẩm Yêu của ông được dựng thành phim với diễn viên Thanh Lan và Anh Ngọc; Đỗ Tiến Đức đạo diễn.
Ông một thời dạy học ở Trường tư thục Phùng Hưng ở Hải Phòng sau làm hiệu trưởng Trường trung tiểu học Lê Văn Trung ở Tây Ninh.
Sang thập niên 1960 ông mở nhật báo Sống ở Sài Gòn. Mục “Ao thả vịt”, “Thơ đen”, và trang Nhạc trẻ rất được độc giả hâm mộ. Những cây viết cộng tác có Tú Kếu, Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng. Nhật báo Sống do Chu Tử chủ trương là cơ sở đầu tiên đăng tác phẩm Loan mắt nhung của Nguyễn Thụy Long.
Vì chính kiến, tòa báo bị Lực lượng Tranh thủ Cách mạng của phe Phật giáo cực đoan tấn công năm 1966. Cũng vào thời điểm đó ông bị mưu sát gần nhà, bị trúng đạn nhưng thoát chết. Cuộc biệt kích này do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chủ trương. Cuối thập niên 1960 báo Sống bị thu hồi giấy phép vì chỉ trích việc chính phủ cho Quân đội Hoa Kỳ toàn quyền sử dụng căn cứ Cam Ranh. Vào thập niên 1970 ông đứng chủ biên báo Sóng Thần nhưng sau rút lui.
Vào ngày 30 Tháng Tư, 1975 trên đường thoát khỏi Việt Nam trên con tàu Việt Nam Thương tín, tàu trúng pháo B-40 khi qua cửa Cần Giờ và ông tử thương, được thủy táng ngay cửa biển.
TÁC PHẨM:
Yêu (Truyện dài, Đường Sáng 1963)
Sống (Truyện dài, Đường Sáng 1963)
Loạn (Truyện dài, Đường Sáng 1964)
Ghen tức Nắng (Truyện dài, Đông Bắc 1964)
Tiền (Truyện dài, Đông Bắc 1965)
30 tháng 4 Tưởng nhớ Nhà văn Chu Tử
Sáng ngày 2-5 của hơn ba chục năm về trước tại Subic Baỵ Tôi đứng dưới con đường dốc lối đi bệnh xá nhìn lên đám người đi ngược về khu tạm trú, chưa kịp vỡ cơn mừng đã vội tắt nụ cười, sững câm bởi vừa nhìn thấy Sơn với đôi nạng gỗ, có Vân dìu đỡ, khấp khểnh lê từng bước. Bà người làm tay bồng tay dắt hai đứa con gái của đôi vợ chồng người con trai lớn của nhà văn Chu Tử. Cả bà Hai lẫn Vân cũng vừa nhận ra tôi, mừng tủi khóc òa lên một lúc.
Tôi đón nhận tin ông Chu Tử chết trong buổi sáng hoang mang xao xác đó. Buổi sáng ngơ ngẩn như hồn đi lạc, xác thân cũng lạc, đường đột bước đi đến nơi bờ bến lạ, không ý thức được rằng mình đi như thế là đi xa đất nước, là rời bỏ quê hương. Tôi nghe choáng váng và lòng tầm tã một cơn mưa buồn thảm… Trọn cái tiểu gia đình đứng trước mặt tôi đều mang thương tích từ mảnh vụn B-40 quân Cộng bắn vào chiếc Việt Nam Thương Tín. Quả đạn đã giết được người và chỉ giết một người trong cái đám đông hốt hoảng chạy tìm đời sống và đất sống. Con người xấu số đó là nhà văn Chu Tử.
Định mệnh nào tai ác đã thù hằn theo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy, trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh ấy của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như hình hài Chu Tử, trưa ngày 30 tháng Tư, 1975 – khi ông buồn bã đứng dựa thành tàu, nhìn Saigon lần cuối, nhìn quê hương lần cuốỉ…
Chu Tử bị bắn một lần hồi tháng Tư, 1966 ngay trước nhà trong con hẻm trường Hoài An, Phú Nhuận – vỡ một mảnh hàm – nhưng ông sống sót và hồi phục chóng vánh kỳ diệu trong thương yêu phẫn nộ của công luận. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng ngày 30 tháng Tư 75 cũng đã thổi bay hàm dưới và là viên đạn chí tử, dứt điểm mà định mệnh đã dành cho đời Chu Tử.
Tôi như nhìn thấy ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trên vũng máu và kêu rên, và gọi tên thống thiết đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã cùng mẹ, cùng em và chồng con ở lại… Tôi như nghe được cả tiếng ông giục Sơn dốc trọn ống thuốc ngủ cho ông nuốt chửng để khỏi kéo dài cơn thảm thiết. Chu Tử đã chào thua định mệnh, chết dữ dằn và phải chết trầm hà. Số mệnh tham lam đã bắt ông phải trả cả vốn lẫn lời quá nặng.
Tôi đã vô cùng gần gụi và có quá nhiều kỷ niệm với nhà văn Chu Tử. Đầu năm 64, tờ Ngày Nay của ông Hiếu Chân bị đóng cửa, tôi đã rời Ngày Nay, theo ông trong cái ê-kíp đầu tiên viết mướn cho cho những vị chủ báo, có vị không bao giờ viết báo. Từ tờ Tương Lai, Tiền Tiến của “vua thầu khoán” Đỗ Cường Duy. Rồi tờ Thân Dân của cụ Nguyễn Thế Truyền, Tranh Đấu của ông “vua đái đường” Ngô Đức Mão, Bến Nghé của “vua bóng bàn” Đinh Văn Ngọc… cho đến khi Chu Tử xin được măng-sét ra riêng tờ Sống, đứng tên Chủ nhiệm, tất cả kéo nhau về tòa soạn cũ trên đường Hồ Xuân Hương.
Cái “ê-kíp Chu Tử” đầu tiên ấy chỉ vỏn vẹn có vài người. Ngồi thường trực trong tòa soạn có Hoàng Anh Tuấn, Trọng Tấu, Đằng Giao và tôi. Vợ chồng Trần Dạ Từ – Nhã Ca và Tú Kếu mỗi đêm đến làm tin, dịch tin. Duyên Anh phụ trách trang thiếu nhi. Vũ Dzũng, Đỗ Quý Toàn trang Thanh niên, Sinh viên. Nguyễn Ang Ca ký giả thể thao, kịch trường. Võ Hà Anh phóng viên chạy ngoài. “Cô” Kim Chi Hoàng Anh Tuấn lo giải đáp tâm tình và tử vi đẩu số! Anh Hợp, Nguyễn Thụy Long, Tuấn Huy, Nguyễn Đức Nam, Lương Quân, Tiền Phong Từ Khánh Phụng viết tiểu thuyết trang trong, lâu lâu mới ghé một lần đưa bài và lấy tiền nhuận bút. Nhân vật “ngoại hạng” phải kể là “chí sĩ” Minh Vồ đặc trách mua bông giấy và ngoại giao với phòng Kiểm duyệt bộ Thông Tin, xin lại giấy phép mỗi khi bị chính quyền đóng cửa…
Tôi đã gần gụi ông Chu Tử trong cả trong đời sống bên ngoài tòa báo, can dự vào nhiều biến cố của gia đình ông như một thành phần ruột thịt. Ông cũng coi tôi như ruột thịt của gia đình và dành cho tôi một tin cậy, mến thương sâu đậm. Tôi đã chứng kiến ông hoan lạc, bi thương, vui, buồn, hờn giận… Chứng kiến một Chu Tử hồn nhiên đúng như Nguyễn Mạnh Côn nhận xét, “Một tâm hồn đứa trẻ trong thể xác ông già”. Nhưng có lẽ tôi thấy đời ông thống khổ nhiều hơn hạnh phúc. Thể xác ông phải chịu những đớn đau nhiều và quá độ đối với hình hài yếu mảnh nhưng mạnh mẽ tinh thần phấn đấu. Như chứng kiến lần Minh Vồ chở ông sau chiếc vespa, bị taxi đụng gẫy chân để Chu Tử phải chống nạng và có bút hiệu Kha Trấn Ác trong mục “Ao Thả Vịt”. Lần ông bị bắn bốn viên đạn, phải đóng đinh trong hàm để giữ bộ răng giả, tay run lật bật khó khăn cầm bút và mất ngủ đến rên la kêu trời réo đất hàng đêm…
Nhưng tất cả những đau đớn thể xác ấy gom lại cũng không bằng cái đau thương thống khổ của ông ngày Chu Trọng Ly, đứa con trai út ông đặt lòng thương quý đã hủy mình bằng viên đạn carbine nổ vào đầu năm 14 tuổi. Nhà thơ Hà Thượng Nhân, dịch giả Phan Huy Chiêm và tôi đã ở bên ông, trong căn phòng cho mượn của ông thẩm phán Phạm Hải Hồ đằng sau khu chợ Bà Chiểu, mủi lòng, bối rối, cảm thương, cực cùng xúc động trước cơn vật vã và tiếng khóc thê lương của người cha cô khổ.
Hơn ba mươi năm đã trôi qua. Hơn ba mươi ngày 30 tháng Tư đánh dấu Việt Nam quốc hận. Hơn ba mươi năm ngậm ngùi tưởng niệm Chu Tử chết cùng vận nước. Tôi day dứt nhớ và tiếc nhiều điều chưa trọn vẹn cùng ông. Chu Tử sống mang biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một con người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh… Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận.
Người như ông, đem thân lưu lạc mà nhìn thấy đám nhân loại nhơ bẩn quá nhiều, lừa dối, gian manh, đê tiện quá nhiều, sẽ héo hon, cô đơn thê thảm gấp trăm lần cái cô đơn thê thảm ngày xưa trên đất nước…
Đào Vũ Anh Hùng
Nguồn: Hợp Lưu
oOo
48 Năm, ngày mất Nhà báo, Nhà văn Chu Tử
Nhà báo, nhà văn Chu Tử vào thập niên 1960, chủ nhiệm nhật báo Sống, tác giả những cuốn tiểu thuyết chỉ một chữ với tác phẩm đầu tay như Yêu (1963) đến Sống (1963), Loạn (1964), Ghen (1964), Tiền (1965).
=Với tác phẩm Sống, Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế đánh giá: “Sống quả là một tác phẩm ‘sống’ rất linh động, sâu sắc, mà gần mười năm nay, mới thấy xuất hiện trên mảnh đất văn nghệ hời hợt, giả tạo của chúng ta”.
-Với bút hiệu Kha Trấn Ác trong mục Ao Thả Vịt trên nhật báo Sống, rất hấp dẫn nên thu hút độc giả ở miền Nam Việt Nam. Theo nhà văn Hoàng Hải Thủy: “Kha Trấn Ác là tên một nhân vật trong tiểu thuyết Võ Lâm Ngũ Bá của Kim Dung. Kha Trấn Ác bị què một chân, phải chống nạng. Khoảng năm 1960, ký giả Văn Minh, tức Minh Vồ, chở ông Chu Tử trên xe Lambretta. Tới ngã ba, một xe taxi trờ tới, đụng ngay vào chân phải của ông Chu Tử. Ông bị giập xương ống chân, ông đi khập khiễng từ đó. Vì chân đi khập khiễng như nhân vật Kha Trấn Ác, ông lấy bút hiệu Kha Trấn Ác khi ông viết Ao Thả Vịt”. “Ao Thả Vịt” dựa vào tuần báo trào phúng Le Canard Enchainé và mục La Mare aux Canards ở Paris, Pháp vào thập niên 1940. “Ao Thả Vịt” đụng chạm đến nhiều nhân vật trong chính quyền nên chỉ được “thọ” trong vài năm khi tờ Sống bị đóng của, trong khi đó La Mare aux Canards sống hùng, sống mạnh, sống dai.
Vẫn theo Hoàng Hải Thủy: “Sau Tết Mậu Thân, báo Sống đang sống mạnh, sống vui thì bị đóng cửa. Nguyên nhân: báo Sống làm một phóng sự về căn cứ quân sự Mỹ ở Cam Ranh. Bán đảo Cam Ranh, dải đất nhô ra biển, được VNCH nhượng cho người Mỹ làm căn cứ. Mỹ xây lên trên dải đất này một bến tầu biển, một phi trường phi cơ phản lực xuống được. Tầu biển Mỹ, phi cơ Mỹ đến đi, xuống lên căn cứ này không phải xin phép cũng không phải báo cho chính quyền Việt Nam biết, dải đất bán đảo này thời gian ấy gần như một phần lãnh thổ Hoa Kỳ. Ban đêm căn cứ đèn điện sáng choang, phi cơ phản lực quân sự Mỹ trắng như bằng bạc, sáng đèn cả trăm cửa sổ, lên xuống như cảnh phi trường bên Mỹ. Thường dân Việt, kể cả viên chức chính quyền Việt, không được vào căn cứ. Có chuyện rắc rối tới không ai ngờ là căn cứ US Cam Ranh không “cắm dzùi” trọn bán đảo, còn một khoảng đất ở đầu bán đảo phía ngoài biển ở ngoài hàng rào căn cứ. Một số dân nghèo Viêt dựng lều trên khoảng đất ấy, họ sống với việc bán “xì ke” cho lính Mỹ. Quân cảnh Mỹ trong căn cứ đến đuổi và phá mấy túp lều của dân Việt. Nhật báo Sống làm lớn vụ này, cáo buộc đây là “hành động quân Mỹ xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam”. Phóng sự của báo Sống bị kết tội “gây chia rẽ giữa Việt Nam và quân đội Đồng Minh.”
Số phận của Chu Tử gặp đại nạn vào tháng Tư. Ngày 16 tháng Tư năm 1966, ông bị ám sát bằng 4 viên đạn xuyên qua cổ, răng, miệng, nhưng không chết. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, tàu Việt Nam Thương Tín, đang từ sông Lòng Tảo, Vũng Tàu, khi qua cửa Cần Giờ, chạy ra khơi, một viên B40 từ bờ bắn lên tàu, lúc đó ông đứng trên mũi tàu bị trúng đạn bị tử thương và được hỏa táng ngay cửa biển.
Về vụ ám sát Chu Tử lúc đó với nhiều nghi vấn về bên nầy và bên kia (VC) đã gây xôn xao trong dư luận. Tháng 5 năm 2013, 38 năm sau, bài viết của Trùng Dương, Nhìn lại vụ Chu Tử bị ám sát hụt, ngày 16.4.1966 trên VOA (Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ). Nhà văn, nhà báo Trùng Dương (Chủ Nhiệm nhật báo Sóng Thần có bài viết nêu ra nhiều chi tiết, và nghi vấn. Và, nhắc đến câu chuyện: Chu Tử gặp riêng Trùng Dương:
“Ông Chu Tử tay run run (từ ngày bị bắn tay ông vẫn run như vậy) rút trong túi ra hai trang giấy viết tay đưa cho tôi, trên đó ông ghi lại cuộc gặp gỡ với tên đã bắn ông, và đề nghị tôi viết lại cái “hồi ký” của tên sát nhân đăng thành nhiều kỳ trên báo. Theo ông thì một hồi ký như vậy sẽ rất “ăn khách”, mà tờ báo thì lúc nào cũng cần những bài nằm “ăn khách” như vậy để giữ độc giả… Thú thực là tôi chưa hề làm “người viết ma” (ghost writer) cho ai bao giờ. Thế nhưng vì thương tờ báo, công trình đóng góp và kỳ vọng của nhiều người, và sự sống còn của nó để phục vụ lý tưởng làm sạch xã hội chúng tôi theo đuổi hồi đó, nên tôi không chút đắn đo nhận lời làm người viết ma cho người bắn ông Chu Tử…
Tôi không còn nhớ hết nội dung của hai trang giấy ông Chu Tử trao cho tôi. Nhưng đại khái, theo ghi nhận của Chu Tử, thì người nhận đã bắn ông thú nhận là anh ta là một Phật Tử theo phe Thượng Tọa Thích Thiện Minh, người đã bị ông Chu Tử lùa vào “Ao Thả Vịt”. Và anh ta bất bình về việc thần tượng của mình bị bôi nhọ, chứ anh ta không có dính dáng gì tới Việt Cộng. Luận điệu này phù hợp với lối suy luận của Chu Tử trong bài tự truyện “Chu Tử trong những suy nghiệm sinh tử của bản thân” in lại trong tập Chu Tử Không Còn Hận Thù. Và tôi đã dựng nên một “hồi ký” trong chiều hướng đó, dựa vào vỏn vẹn có hai trang giấy viết tay ghi lại cuộc gặp gỡ với kẻ tự nhận bắn mình của ông Chu Tử, với rất nhiều… tưởng tượng”.
Theo ghi chú của bà: “Chu Tử Không Hận Thù, nhật báo Sống biên soạn và xuất bản, 1966, Sài Gòn, Việt Nam; Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, 1987 (?). Sách dầy 200 trang, gồm bẩy phần: 1) Chu Tử trước mũi súng sát nhân, ghi nhận các sự kiện xung quanh vụ Chu Tử bị bắn; 2) Chu Tử trong cơn phẫn nộ thương yêu của công luận, ghi nhận phản ứng của đồng bào các giới với vụ khủng bố; 3) Chu Tử trong những suy nghiệm sinh tử của bản thân, là tập tự truyện của Chu Tử viết sau khi anh đã đối diện với cái chết, tr. 65-105; 4) Chu Tử trước ngòi bút thân ái của các văn hữu, gồm những bài viết đặc biệt về Chu Tử; 5) Chu Tử và anh em Sống; 6) Chu Tử và phản ứng chung của báo giới trong và ngoài nước; và 7) Chu Tử và vài hình ảnh vụ mưu sát. Sách hiện được lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội và các thư viện công cộng tại những vùng có đông người Việt cư ngụ tại Hoa Kỳ. Độc giả có thể nhờ thư viện địa phương mượn giùm qua chương trình Interlibrary Loan).
Cuối cùng tôi có được cái link để tải xuống tài liệu mang số F034600991054 (*), trong đó có ghi tên đặc công Việt Cộng đã có nhiệm vụ hạ sát hai ký giả Từ Chung và Chu Tử: Huỳnh Văn Long. Do thành tích này, Long đã được thưởng huân chương thành tích đệ tam đẳng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tôi có hỏi xin bản sao nguyên tác bằng tiếng Việt nhưng được biết thường sau khi làm tường trình xong thì các tài liệu nguyên thủy bị hủy bỏ. Vậy xin ghi lại để rộng đường dư luận…” (TD).
Về Hòa Thượng Thích Thiện Minh, theo Wikipedia & quangduc.com, Hoà Thượng Thích Thiện Minh (1921-1978), khi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thầy được tuyển làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên. Tháng 5 năm 1966, trong phong trào đấu tranh của Phật Giáo ở miền Trung, thầy được Viện Hóa Đạo và các phong trào cử làm Chủ Tịch. Ngày 29.5.1966, thầy bị ám sát bởi quả lựu đạn nổ khi vừa ra khỏi taxi, rất may chỉ bị thương tật ở chân. Năm 1973, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, thầy đảm nhiệm chức vụ quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Sau năm 1975, thầy bị bắt giam trong trại tù ở Hàm Tân, Bình Thuận. Tháng 10.1978, thầy chết trong trại tù. Hòa Thượng Thích Đôn Hậu cho biết, được tin Hòa Thượng Thích Thiện Minh chết, Viện Hoá Đạo cử thầy ra thăm viếng, nhưng chỉ thấy được cái mặt trong hòm, và không được phép mang về chôn cất. Cho đến nay cái chết bi thảm của thầy vẫn bí mật. (Có sự trùng hợp cùng pháp danh Thượng Tọa Thích Thiện Minh (1969-2018) sau nầy).
Rất tiếc không còn lưu trữ trong mục “Ao Thả Vịt” để biết khi Chu Tử lùa thầy Thích Thiện Minh vào trong “ao” với những lý do gì? Hai vụ ám sát xảy ra cách nhau trong 6 tuần lễ đã đặt ra nhiều nghi vấn: ai, thế lực, phe nhóm, tổ chức nào gây xáo trộn và hoang mang trong dư luận? Trong giai đoạn nầy, chính quyền miền Nam VN được điều hành bởi Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia & Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Tháng 6.1965 đến tháng 11.1967) vì vậy có nhiều thành phần đối lập và đối phương đã tìm mọi cách cho tình thế thêm rối ren!
Vì vậy, vụ ám sát Chu Tử năm 1966 cho đến nay đã 57 năm (1966-2013) vẫn còn là bí ẩn. Có nhiều bài viết, tư liệu đã đề cập đến vụ ám sát nhưng trong phạm vi bài nầy chỉ tưởng nhớ ngày mất của nhà văn Chu Tử vào thời điểm nầy.
Với mục phiếm Ao Thả Vịt, Chu Tử lấy nhân vật Kha Trấn Ác làm “nghĩa hiệp” trừ gian. Vì vậy ngòi bút của ông, tuy gọi là phiếm, thực hư khó biết, bán tín bán nghi nhưng khi đề cập đã đụng chạm khá nhiều, gây ân oán giang hồ. Thời đó, tác phẩm Yêu của Chu Tử rất ăn khách. Thầy Đạt, bạn của Thức được mời dạy Anh văn, Pháp văn cho 4 người con gái. Thế rồi chú Đạt và cháu Diễm yêu nhau.
Vương Trùng Dương
(Little Saigon, May 2023)
Một Nước Đức Yếu Kém Gây Bất Lợi Cho Âu Châu
Ana Palacio, “Germany’s weakness is bad for Europe“, The Strategists
Chuyển ngữ: Lương Định Văn
Đã từng là kẻ bệnh hoạn của Âu Châu, nước Đức dường như đang lâm bệnh trở lại. Có thể đó là một cách nói nhẹ nhàng: giống như những gì đã xảy ra vào cuối những năm 1990, nước Đức đang phải đối diện với một nền kinh tế bị đình trệ – mức độ lạm phát và thất nghiệp cao cộng với sự trì trệ của số lượng cầu và mực tăng trưởng thấp. Thiếu sự lãnh đạo chính trị có hiệu quả càng làm cho triển vọng của nước Đức và Liên minh Âu Châu, vốn phụ thuộc vào họ, trở nên ảm đạm hơn.
Pháp có thể là nền kinh tế lớn thứ hai của EU, một cường quốc hạt nhân và là quốc gia thành viên thường trực duy nhất trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, nhưng Đức là cường quốc kinh tế, đã được hưởng lợi trong nhiều năm từ khí đốt giá rẻ của Nga, lượng nhu cầu cao về xe cộ của Trung Quốc và các mặt hàng sản xuất, và chi phí quốc phòng thấp, được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ (thông qua NATO). Hơn nữa, họ đứng ở vị trí cao nhất trong các tổ chức Âu Châu . Cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel có ảnh hưởng lớn trong việc định hướng chính sách của EU đến mức bà được mệnh danh là “nữ hoàng Âu Châu”.
Nhưng bà Merkel không bao giờ thích được người ta chú ý đến và thường miễn cưỡng trong vai trò lãnh đạo. Người kế nhiệm của bà, Olaf Scholz, thậm chí còn ít lời hơn, chỉ đưa ra những tuyên bố công khai khi cần thiết và tránh có những hành động quyết đoán, đặc biệt khi nó có thể gây tranh cãi. Một thuật ngữ mới được đặt ra là ‘Scholzing’ — hiện đang lan truyền trên mạng xã hội — mô tả việc ‘truyền đạt những ý định tốt, và rồi chỉ nhằm sử dụng/ tìm kiếm/ tạo ra bất kỳ lý do nào có thể nghĩ ra được để trì hoãn những điều này và/hoặc ngăn chặn chúng xảy ra’.
Không một quốc gia nào chịu ảnh hưởng của Scholzing nhiều hơn là Ukraine, là quốc gia đã nhiều lần chờ đợi sự miễn cưỡng của Scholz trong việc cung cấp các hệ thống vũ khí của Đức, chẳng hạn như thiết giáp xa Leopard 2, để hỗ trợ cuộc chiến chống lại Nga. Ngày nay, Ukraine cần Đức gửi phi đạn hành trình tầm xa Taurus, vì không quốc gia nào khác có khả năng cung cấp một số lượng lớn vũ khí tương đương như vậy trong một thời gian ngắn. Nhưng Scholz cho đến nay vẫn kháng cự lại áp lực phải thực hiện điều này.
Ưu tiên hàng đầu của Scholz dường như là tránh việc leo thang cuộc xung đột, đặc biệt là cuộc đối đầu trực diện giữa NATO và Nga. Theo quan điểm của ông ta, việc gửi phi đạn làm tăng mối rủi ro này, bởi vì điều đó buộc ông phải đưa binh lính Đức đến giúp vận hành chúng. Trong một đoạn ghi âm bị rò rỉ về cuộc gọi điện thoại liên quan đến bốn viên sĩ quan không quân cấp cao của Đức thảo luận về các tình huống có thể triển khai Taurus đã lập lại sự đánh giá này, mặc dù các chuyên gia đã bác bỏ lời tuyên bố rằng chỉ có các sĩ quan Đức hiện diện tại chỗ mới có thể vận hành loại phi đạn này một cách có trách nhiệm.
Khi từ chối gửi loại phi đạn Taurus đến Ukraine, Scholz đang xung khắc với các thành viên trong chính phủ liên minh của chính ông ta. Tháng trước, Marie-Agnes Strack-Zimmermann, một nhân vật có tiếng nói hàng đầu trong Đảng Dân chủ Tự do, đã quyết định bỏ phiếu ủng hộ việc gửi phi đạn tới Ukraine.
Tình trạng lỏng lẻo của chính phủ liên minh gồm ba đảng của Đức đã gây suy yếu khả năng của Scholz trong việc thực hiện các thỏa thuận với những lãnh đạo ở các quốc gia EU khác. Những người trong cuộc ở Brussels than thở: “Liên minh Đức hành động chậm chạp hơn so với các cuộc tranh luận trong EU”.
Ngoài tình trạng mong manh đó, liên minh của Scholz còn không được dân chúng ưa chuộng. Trong một cuộc thăm dò vào tháng 12, chỉ có 17% số người được dò hỏi bày tỏ sự hài lòng với ông ta. Ngay chính cá nhân Scholz có một tỷ lệ tán thành thấp nhất so với bất kỳ thủ tướng Đức nào, ít nhất là kể từ năm 1997 (là năm khi cuộc thăm dò đã được tạo ra).
Hoàn toàn khác hẳn với việc thúc đẩy Scholz thay đổi trong việc gởi phi đạn Taurus, vị thế chính trị yếu kém của ông có thể khuyến khích ông ta trong việc dậm chân tại chỗ. Được mệnh danh là ‘thủ tướng hòa bình’, Scholz đã xây dựng một hình ảnh theo chủ nghĩa hòa bình gây được tiếng vang trong giới cử tri. Trong một cuộc khảo sát gần đây, 61% dân Đức bày tỏ sự ủng hộ việc ông trong việc từ chối cung cấp phi đạn cho Ukraine.
Với các cuộc bầu cử Nghị Viện Âu Châu vào tháng 6 và các cuộc bầu cử cấp tiểu bang sẽ diễn ra vào cuối năm nay – bao gồm cả miền đông nước Đức, nơi có xu hướng phản đối mạnh mẽ về bất kỳ cuộc đối đầu nào với Nga – Scholz không thể mạo hiểm việc tỏ ra có thái độ hiếu chiến. Vì các cử tri của Đức ủng hộ phe cực hữu—Đảng Giải pháp Thay Thế của Đức (AfD) dường như đã ở vào vị thế chuẩn bị trở thành đảng lớn thứ hai của Đức trong Nghị viện Âu Châu — một tình huống cực kỳ quan trọng.
Sự trỗi dậy của Đảng AfD phản ánh sự thất vọng ngày càng tăng của người dân, đặc biệt là đối với nền kinh tế. Chính trong cuộc khủng hoảng ngân sách năm ngoái, tỷ lệ ủng hộ AfD đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay là 23%. Và, theo một cuộc đánh giá, năm nay nước Đức đã có nhiều cuộc đình công hơn so với một phần tư thế kỷ trước đó.
Dân chúng có lý do chính đáng để bày tỏ sự thất vọng. Năm 2023, nền kinh tế Đức sút giảm 0,3% – một thành tích tệ hại nhất so với bất kỳ nền kinh tế lớn nào – có mức lạm phát cao nhất trong 50 năm qua. Mực sản xuất kỹ nghệ giảm 1,5%, đơn đặt hàng của các công xưởng giảm 5,9%, xuất khẩu giảm 1,4% và nhập khẩu gần 10%. Tháng 11 năm ngoái, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức cao nhất kể từ tháng 5 năm 2021 (5,9%).
Sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế dường như khó có thể xảy ra. Ngược lại, mức độ lão hoá nhanh chóng của dân số Đức đang làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu lao động vốn đã nghiêm trọng, có thể lên tới 7 triệu công nhân vào năm 2035, và các viện kinh tế hàng đầu của Đức gần đây đã cắt giảm sự tiên đoán mức tăng trưởng chung của họ cho năm 2024 từ 1,3% xuống chỉ còn 0,1%. Phán quyết của Tòa Hiến pháp vào năm ngoái về việc chính phủ tái phân bổ khoản nợ chưa sử dụng trong thời kỳ đại dịch qua cho Quỹ Khí Hậu mới là vi hiến, đã không củng cố được niềm tin vào Scholz và các đồng sự của ông.
Tình hình nền kinh tế ở Đức giống như của những năm 1990, khi đất nước thống nhất khiến cho tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, sản lượng kỹ nghệ giảm và tăng trưởng GDP chậm chạp. Vào thời điểm đó, hành động dứt khoát của các nhà lãnh đạo quyết đoán, được củng cố bởi niềm tin tuyệt đối vào Phương Án Âu Châu , đã kéo nước Đức ra khỏi tình trạng suy thoái. Ngược lại, mặc dù Scholz hiểu những thách thức mà ông phải trực diện – bao gồm cả sự sút giảm số lượng xuất khẩu sang Trung Quốc và có thể mất đi sự bảo đảm an ninh của Hoa Kỳ – nhưng Scholz vẫn chưa vạch ra một hướng đi rõ ràng tiến về phía trước.
Đây là dấu hiệu tệ hại đối với EU và các quốc gia thành viên. Một nước Đức suy yếu, không có hướng đi rõ rệt sẽ không được một ai quan tâm đến.
Ana Palacio, cựu Ngoại trưởng Tây Ban Nha, nguyên Phó Chủ tịch Cao Cấp và Tổng Cố Vấn của Tập Đoàn Ngân hàng Thế giới, Giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Georgetown.
Duyên – Nghiệp
Thức chờ chủ nhà, trong lúc chuyện trò với bà chủ, anh cố hình dung người chồng. Là một nhà giáo, lại dạy Đại học, có lẽ là một người có vóc dáng bệ vệ, gương mặt mập mạp sung túc và tự mãn bởi những gì đạt được trong đời…Khi người đàn ông hiện ra nơi cánh cửa, mọi hình dung cuả anh tan biến, trước mặt anh là một người đàn ông vừa người, có vẻ hơi gầy, cao và gương mặt thì hiền hâu với nụ cười cởi mở.
-Chào anh, đợi có lâu lắm không?
-Không Thầy ạ. Tôi cũng vừa đến thôi.
Bỏ cái cặp da cũ lên chiếc ghế, chủ nhà quay qua người vợ:
-Em làm nước uống nhé, anh không bận gì chứ?
-Vâng,
-Có lẽ chúng ta nên anh em cho tiện, tôi sáu mươi, vừa xong thủ tục hưu, còn anh?
Thức vui vì sự cởi mở thân tình của chủ nhà:
-Vậy là tôi thua anh ba tuổi.
Anh đã xem nhà, giá cả cũng đã thỏa thuận. Nhưng cả hai lần đều không gặp ông Trung, chủ nhà thực sự. Việc chủ nhà yêu cầu gặp và nói chuyện với anh trước khi bán làm anh cứ băn khoăn không biết có gì đó khuất tất về quyền sở hữu hay là một mắc mướu gì đó về thủ tục…
Ngồi vào bàn, Thức xoay nhẹ ly nước, im lặng nhìn ông Trung như chờ đợi. Ngồi nhích vào cho bà vợ cùng ngồi, ông Trung nói :
-Hôm xem nhà, anh có thấy căn phòng nhỏ nằm phía cuối hàng cau không?
Thức có nhớ mang máng, căn phòng nhỏ nằm cuối khoảng đất chừng bốn mét bên hông nhà, nhờ khoảng đất này mà căn nhà thêm giá trị, anh cho căn phòng có lẽ là nhà kho hay bỏ trống nên không yêu cầu xem bên trong, giờ ông Trung nhắc đến làm anh hơi bở ngỡ.
-Có anh, nhưng thế nào ạ?
-Diện tích nó là 4mx3m, mấy năm nay tôi cho hai cha con một người bạn ở, bây giờ bán nhà, không biết họ sẽ thế nào?!
Thức hơi ngập ngừng:
-Ông ấy không củng ông lên Di Linh sao?
-Bạn tôi thì có thể nhưng cháu nhỏ đang đi học nên khó. Vì thế tôi không biết anh có sẵn lòng giúp cho đến hết năm học này không, từ đây đến đó còn khá lâu?!
Thức hơi ngập ngừng:
-Nhà tôi cũng chỉ ba người, hai vợ chồng và đứa con gái vừa mới đi làm, cháu đầu lập gia đình, vợ chồng cùng đi dạy ở Nha Trang…Nhưng tôi cũng bàn lại với nhà tôi rồi sẽ báo lại với anh. Anh ấy làm gì hả anh?
-Anh ta bị mù, ăn xin quanh Sài gòn với cô con gái.
Thức ồ lên một tiếng nhỏ, thoáng chút ngỡ ngàng. Một người mù, ăn xin, lại là “bạn” của một thầy dạy Đại học!
Ông Trung làm thủ tục chuyển nhựơng và giao nhà thật nhanh chóng, có lẽ do ông khỏi phải mua nhà ở Di Linh, cùng với sự nôn nóng của bà vợ, họ muốn lên trên ấy càng sớm càng tốt.…Song thân của bà ấy đang phải sống những ngày già cả với nỗi buồn quạnh vắng từ ngày cậu con trai đột ngột từ trần ở tuổi ba mươi chín. Không vợ con. Hai tháng nay phải nhờ người cô cũng đã luống tuổi chăm nom.
Vợ Thức không khó khăn gì với yêu cầu cho “người ăn xin” và cô con gái lưu lại một thời gian trong nhà. Nhưng hơi tò mò về “người bạn” của ông Trung và tình cảm của họ với nhau thế nào!
Chiếc xe mướn chất đồ đạc lên xong thì cũng đã chín giờ tối, phần nhiều những đồ đạc gia dụng để lại cho chủ mới, chi mang đi những gì cần thiết, thế mà cũng gần một chiếc xe tải trung. Phải dành một góc xe cho chù chó giống Phú Quốc, không biết sáng mai khi lên xe chú có chịu nằm yên không, hai ngày nay chú đã không chịu ăn, cứ nằm nơi cửa phòng ngủ của ông bà mà rên ư ử! Bà Trung tuy nôn nóng nhưng không muốn chạy đêm.Tài xế cho xe nép sát vào cổng nhà rồi đóng cửa cabin nằm ngủ, bà cũng lên phòng mình, khi đi ngang qua hai người, bà nhìn ông Trung với đôi mắt đỏ hoe !
Còn lại hai người. Phòng khách giờ trống trải hẳn đi vì thiếu những cuốn sách trên giá, những bức tranh trên tường,…Chiếc bàn và bộ sa lon vẫn còn nguyên nhưng mất đi mấy tấm hình của các đứa con ông Trung chụp hồi nhỏ và tấm hình lớn ông Trung chụp cùng các thầy cô hồi dạy ở Đại Học Đà Lạt.
Thức cười vu vơ khi nghỉ: Một vài bức ảnh, vài cuốn sách, đôi khi lại là cái gì đó làm nên không gian và sự sống một căn nhà. Anh lại liên tưởng đến đôi mắt đỏ hoe của bà chủ nhà, lúc này chắc đang nhìn căn phòng thân quen với bao hoài niệm…
Ông Trung đứng lên, đến bên chiếc bàn nhỏ kê sát tường, cầm chai rượu đưa ngang tầm mắt, nhìn Thức cười:
-Chúng ta làm vài ly chứ? Hai mươi mốt năm ở nhà tập thể, hai chúng tôi dành dụm lắm mới tạo dựng được cái nhà này gọi là cơ ngơi…Giờ xa nó cũng buồn !
Thức ái ngại đứng lên:
-Nên lắm, nhưng anh đễ tôi đi kiếm chút gì đưa cay.
-Nhà tôi có mấy con mực…Nhờ bà ấy bật lò nướng chút là xong.
-Thôi, khỏi phiền cô. Với Sài gòn thì giờ này còn sớm mà anh.
Thức đứng dậy, dắt xe ra ngỏ. Khi tiếng máy xe nhỏ dần, ông Trung lên phòng ngủ, vợ ông ngồi dậy, ông đến bên bà ôm lấy đôi vai, nhìn lên trần nhà nói thật nhỏ:
-Anh nhớ hồi mua được đám đất này, anh mừng đến độ gặp ai cũng khoe, viển cảnh thoát được nhà tập thể như rất gần, vậy mà mười hai năm ki cóp nó mới thành hiện thực! Hôm dọn nhà mới là sinh nhật lần thứ bốn mươi hai của em. Ôi, đúng là một sinh nhật tưng bừng… Tưởng sẽ sống những ngày an nhàn sau hưu trì, ai dè…
-Em có buồn nhưng không tiếc đâu anh, lên cùng bố mẹ cũng vui mà. Dù sao, nơi ấy cũng đã cho em những tháng ngày thơ ấu và thanh xuân thật tuyệt diệu…Anh không nhớ những khóm dã quỳ và hai cây trạng nguyên ở cổng nhà sao?
-Có, anh xin lỗi em, Nụ hôn đầu tiên của chúng ta cũng nơi ấy, khóm trạng nguyên tuyệt vời !
Anh lại ôm chi, lâu lắm rồi, cả hai tìm môi nhau, họ hôn nhau vụng về, nồng nàn… như thủa ban đầu, ở tuổi sáu mươi…và như thế cho đến khi nghe tiếng xe máy vào ngỏ.
oOo
Thức vào nhà, như đã là chủ nhà chính thức, anh trải ra bàn nào thịt gà, sò và thịt dê nướng…
Ông Trung vụng về mở chai rượu, loại Rhemy Martin bình thường, rót đầy hai chiếc cốc trà:
-Nào, chúc mừng cho cả hai nhé.
Thức cụng thật kêu, có lẽ về khoản nhậu thì anh hơn hẳn chủ nhà, anh nhận thấy thế khi thấy ông Trung loay hoay với cái nút chai. Rối cạn ly rượu trong khi ông Trung chỉ nhấp một ngụm quá nửa cốc!
-Cái khoản này thì anh cứ tùy nhé, coi bộ anh không “chuyên nghiệp” rồi.
-Ừ, mình ngồi nhấp với anh em thì khá bền nhưng uống thì chỉ vài ly! Nếu hôm nay uống không hết, vài hôm bạn tôi về, chú Thức nhâm nhi cùng anh ấy nhé. Anh ấy tên Khả.
-Tiện anh Trung nhắc đến người bạn, tôi hỏi một chút, vì sao mà anh quen và đưa anh ấy về ở cùng?
Ông Trung nâng ly rượu, nhấp môi, ông đã ngồi cùng Khả nhiều lần, thường thì từ tối đến nữa đêm…Những mẩu chuyện dời Khả dan xen những bản nhạc mà Khả cất lên tùy hứng…Giọng Khả ấm, trầm, khi lên cao thì tha thiết nồng nàn, pha chút ray rứt, bâng khuâng…Ông Trung ngồi nghe mà tâm hồn xao xuyến với những tang thương trong đời Khả…
-Khả cùng tuổi với tôi. Nhưng cuộc đời anh ta thì gian nan lắm! Trước đây, đang đi học thì bị đôn quân, anh cưới vợ sau khi đăng lính, trong một lần về phép, cô bạn học ngày nào đùa cợt vô tư cùng nhau, nay bỗng duyên dáng hẵn ra trong mắt anh, đôi nhủ hoa ngày ấy ép sát sau chiếc áo dài trắng muốt, nay nhô lên gợi cảm sau lán áo xoa màu huyết, đôi cánh tay tròn lẵn với hai bàn tay mum múp đan vào nhau… nhất là đôi mắt nhìn anh vừa lạ lẫm vừa mến trìu ! Anh biết những ngày tháng trong quân ngũ đã giúp anh trưởng thành. Những ngày chủ nhật ở quân trường, lang thang cùng các bạn ở Nha Trang, sau những tảng đá, những vùng cát trắng mịn ở Đồng Đế…đã biến anh thành đàn ông…
Anh đã cùng cô bạn học cho nhau hết những nồng nàn rạo rực và hoan lạc…và rồi đám cưới vội vã đơn sơ diển ra, như bao đám cưới trong thời chiến.
Năm 75, vào những ngày giao tranh cuối cùng, cả nhà anh chết khi cùng nhau chen chúc trong hầm vì một trái pháo, vợ anh sống sót bởi ở cùng bên ngoại, lúc này cô ấy đang mang thai. Anh trở về, trơ trọi với nỗi lòng xót xa tuyệt vọng, bàng hoàng, không muốn tin đó là sự thật! Khi nỗi đau tạm lắng xuống, anh tự an ủi mình là từ nay thoát được cảnh lính tráng xa nhà, luôn cận kề cái chết.
Anh về ở với vợ bên nhà ngoại, chưa bao ngày thì được gọi đi trình diện học tập. Chỉ cấp bậc Trung sĩ mà anh cải tạo gần hai năm tận Tuy Hòa. Thời gian này chị vợ sinh một cháu trai, nỗi mừng chưa nguôi thì đứa con chết khi tròn tuổi vì bị sốt xuất huyết. Nghe tin, anh khóc lóc vật vã, ý tưởng quyên sinh chập chờn trong đầu anh nhưng rồi anh nghỉ đến người vợ, cũng đang đau khổ, cô đơn nơi quê nhà…
Dường như định mệnh muốn anh phải sống đễ cợt đùa thêm cho trọn trò nghiệt ngã! Một buổi sáng anh được nghỉ đi lao động, đang nằm trên chiếc sạp nứa, được gọi lên Ban Quản Giáo, họ cho biết đã mãn hạn học tập, trả về địa phương. Anh mừng rỡ, hét lên như một gã điên.
Khả trở về. Hạnh phúc bên người vợ chưa bao lâu thì chị ấy nhuốm bệnh, da mặt ngày càng tái xanh, mệt mỏi…những lần khám bệnh ở trạm xá với những viên thuốc nam không giúp gì cho chị… Cuối cùng, chị bỏ anh ra đi sau hai ngày đau đớn vật vã, những hạch bằng những viên bi mọc quanh cổ chị, những lời cuối cùng chỉ là những tiếng ú ớ không rõ ràng, chỉ cái bóp tay anh là có ý nghĩa! Chị mất vì chứng ung thư đường huyết!
Anh như tê liệt hết cảm xúc, ngồi bên mộ vợ như một tấm bia bất động mấy ngày…
Đám tang xong, anh đau liệt gần một tháng. Khi trở dậy thì đôi mắt mờ dần rồi mù hẳn!
Anh xem, bấy nhiêu khốn khổ đổ lên một con người, tai ương nảy chưa nguôi thì họa khác ập đến, dồn dập…nếu là tôi, chắc tôi không sống nỗi!
Không biết làm gì mưu sinh trong những ngày tháng sắp tới với đôi mắt mù lòa, cũng không còn gì níu kéo nơi quê hương đắng xót…Khả đi xin ăn nơi này qua nơi khác với cây đàn Guitar, nó là kỷ vật còn lại của thời trai tráng vô tư…rồi trôi dạt tận Sài gòn.
Khổ đau đến với anh ấy quá nhiều, nhiều đến dộ anh trở nên trầm tư, u uất…Nhiều lúc tôi thở dài, tỏ ra xót xa cho những gì mà anh từng phải gánh chịu, anh chỉ nói một câu, trong tiếng thở dài:
-Mọi sự theo duyên mà đến, mọi sự theo duyên mà đi…
Bốn năm trước, một người phu nữ, ngồi nghe anh hát suốt ngày với đứa bé gái. Tối đến, khi anh quờ quạng chiếc gậy đi về hàng hiên một ngôi nhà lớn mà lâu nay Khả nương nhờ, chị theo anh rồi dịu dàng trải cho anh tấm chiếu. Những lời đổi trao ít ỏi cho anh biết chị cũng thất cơ trở thành vô gia cư…
Chị trải một chiếc chiếu khác bên cạnh anh, nằm với cháu bé. Không có gì đáng để mất mát mà đề phòng…anh ngủ đến sáng. Tiếng khóc nức nở của cháu bé làm anh thức dậy, người phụ nữ không còn, chỉ có cháu bé và một túi xách! Mắt không thấy nên anh không biết làm gì hơn là vỗ về cháu, luôn miệng nói; “mẹ sắp về con ạ, mẹ đi mua dồ ăn sáng cho con thôi mà…”
Bà bán xôi đem xôi đến cho anh như mọi sáng, nghe chuyện, bà gói cho cháu một gói, nói với anh với giọng nghi ngại:
-Kiểu này là đem con bỏ chợ rồi, coi trong túi xách là biết liền,
Một vài người tò mò ghé lại. Chiếc túi khá đẹp. Hai bộ áo quần nguyên vẹn với một chiếc đầm màu trắng tinh, vài cái áo cũ…Bên một ngăn kéo, bà bán xôi lôi ra một cái ví nhỏ, hai tấm hình. một chụp toàn thân cháu, vào lúc chừng bốn tuổi với chiếc đầm, một tấm chụp người đàn bà với người đàn ông, cả hai còn rất trẻ, tay bồng cháu bé đứng trước một căn nhà lá, sau lưng là một con kênh um tùm chuối và cây mỳ. Hai trăm năm chục ngàn kèm theo, ngoài ra không có gì nữa !
-Chắc là anh ấy phải nhận cháu bé ?
-Anh nhận. anh nhận và xem đó là một diễm phúc trời ban… Hai cha con trở thành hành khách quen thuộc trên các tuyến xe buýt: Bến thành, Gò Vấp, Bình Triệu, Tân Bình…Đôi mắt mờ đục của anh và đôi mắt tròn ngơ ngác của cháu làm xúc động nhiều tấm lòng…
Hai năm sau, nghỉ đến tương lai cháu bé, muốn cho cháu được đi học, anh đến phường này xin làm khai sinh cho cháu. Hôm đó, vợ chồng tôi cũng có mặt để lo thủ tục nhận hưu tại địa phương cho nhà tôi. Nhân viên hộ tịch chỉ chấp nhận làm khai sinh khi có hộ khẩu hoặc ít ra là tạm trú, mà tạm trú thì phải có địa chỉ…Đôi mắt của bé gái và vẽ mặt thất vọng của Khả làm nhà tôi không thể làm ngơ. Cô ấy quyết định bảo lãnh hai cha con.
Chuyện đã mấy năm nay rồi, giờ anh ấy đang về ngoài Trung làm giỗ cho gia đình và vợ con…
Chiếc đồng hồ cổ lỗ trên tường thong thả buông tiếng. đêm đã khuya…Trong căn phòng im ắng, ngập tràn niềm thương cảm hoang mang, trong lòng hai người đàn ông dấy lên niềm xao xuyến băn khoăn cho thân phận con người, giữa cõi đời mong manh…
oOo.
Cậu Quý, con trai út, là niềm vui của gia đình, là hạnh phúc của Bố mẹ vợ ông Trung. Trong gia đình bốn gái một trai. Ba người con khác đều yên ấm ở nước ngoài. Từ nhỏ, cậu hiển lành chăm chỉ, thích thẩn thơ trong vườn chè. đi câu cá…Nhưng từ ngày vào Sài gòn học Đại học, ban đầu còn ở nhà chị, sau dọn vào Ký Túc Xá, rồi nghe đâu mướn phòng riêng để ờ cùng ai đó…Những năm về sau thì biệt tăm không ai biết cậu ở đâu!
Cả gia đình, nhất là hai ông bà già, sống trong lo âu và tuyệt vọng. Ông Trung tìm khắp các khu nhà trọ vẫn không có chút tin tức gi…
Mãi nhiều năm sau, một hôm, cậu đột ngột trở về làm ông bà mừng đến ngạt thở! Cũng ít nói, nhưng ngày xưa thì vui vẻ hồn nhiên, nay trong cái im lìm như chất chứa đều gì đắng cay, ray rứt.
Bà mẹ có gợi ý với cậu lập gia đình, sau khi cậu về nhà độ một năm, nhưng cậu lắc đầu. Thấy mẹ buồn rầu, cậu nói nho nhỏ:
– Con không làm chồng được mẹ ạ !
Từ đó đến nay, bà không hề nhắc lại lần nào nhưng trong lòng, bà mong muốn một đứa cháu nội biết là bao!
Hai ngày bận rộn với việc thu xếp đồ đạc, hôm nay, bà Trung đi thăm mấy người bạn cũ. Ông Trung vào phòng của cậu em xem qua, tiện thể sắp xếp lại để có chỗ đưa số sách của ông vào. Kệ sách của cậu kê kín một khoảng tường, phần nhiều là sách giáo khoa của những năm học trung học, xếp ngay ngắn ở những ngăn dưới. nơi ngăn gần bản, ông Trung ngạc nhiên nhìn những cuốn sách viết về Phật Giáo, phần nhiều còn mới, chứng tỏ mua từ sau khi cậu trở về.
Cuốn kinh Bát Nhã với khổ nhỏ màu vàng, giấy láng thật đẹp, xuất bản ở Ấn quán Trúc Lâm, Paris, Chữ Việt và chữ Phạn, nằm trên bàn. Ông Trung lật xem, trang trong có hàng chữ ghi bằng bút bi:
“ Con ạ, Duyên- Nghiệp trùng trùng, chớ băn khoăn. Quá khứ thì đã qua…đừng vọng tưởng sinh phiền lụy. Con và vợ, con của con, chưa đủ duyên nên ly tán, khi đủ duyên ắt sẽ hợp. Nay con về phụng dưỡng cha mẹ là việc nên làm…”
Ở dưới có hai chữ : “Giác Viên.”
Cuốn kinh sách và dòng chữ ghi như những lời khuyên dạy, làm dậy lên trong ông sự tò mò, ngạc nhiên.
Trong một ngăn khác, gồm nhiều xấp giấy rời, có cuốn sổ bằng giấy thường, đã vàng ố, ông Trung lật xem, đó là cuốn nhật ký. Xem ngày tháng, ông thấy được ghi vào thời gian Câu ấy còn học Đại Học…
oOo
Ông Trung miệt mài suốt buổi với cuốn nhật ký. Khi vợ ông vào thì đã quá trưa. Ông đứng dậy dụi mắt… trên tay cầm mấy tấm ảnh đã cũ. Ông nói với bà Trung, sắc mặt nghiêm nghị:
-Em ạ, thời gian chúng ta không biết gì về cậu ấy có thể nói gọn lại như thế này: Khoảng gần cuối năm thứ tư thì cậu yêu rồi có thai với một sinh viên. Hai người về sống ở Tây Ninh. Cả hai bên đều không nói với cha mẹ, gom hết những gì có thể bán được, họ làm một cái lều bằng lá, rồi đứa con gái chào đời…Hằng ngày, cậu ấy chạy xe ôm kiếm sống. Họ đã sống cùng nhau trong hạnh phúc…
Chừng bốn năm sau, cậu ấy bị một cơn bệnh nặng, chuẩn đoán viêm ruột thừa, bệnh viện phẫu thuật vụng về, bị nhiễm trùng, phải phẩu thuật nhiều lần…Sau khi hồi phục một thời gian…Cậu đau khổ vì thấy mình không thể làm công việc của người chồng, cậu ấy không còn là một người đàn ông theo đúng nghĩa của nó!
Một hôm chạy xe ôm trở về, câu không thấy vợ và dứa con gái ba tuổi. Nơi tờ giấy lịch dặt trên bàn, nghệch ngoạc mấy dòng ngắn ngủi, cô ấy nói là về với cha mẹ ở Kom Tum.
Cậu buồn và thất vọng, vào một ngôi chùa đâu đó gần biên giới Campuchia…Ở đó cho đến ngày về lại nhà. Cậu luôn nhớ con và ước ao được hôn nó một lần, đêm trước khi bị tai biến, câu mơ thấy con, bàng hoàng ngồi dậy khóc rồi viết suốt …nước mắt ướt cả cuốn nhật ký! Em xem mấy tấm hình này, có tấm anh thấy quen lắm mà không nhớ đã nhìn được ở đâu …
Bà cầm mấy tấm hình chăm chú…lát sau mới lắp bắp:
-Giống tấm hình.. chỗ con gái… anh Khả… anh ạ. Đúng lả bé ấy rồi ! Ôi em ơi, ôi cháu tôi ! Chị tìm được con cho em đây Quý ơi!
Ông Trung cũng vừa nhận ra, đưa tay lên môi ra hiệu cho bà đừng khóc lớn. Trong hình Cậu em gầy và đen…nhưng cô bé thì rất dễ thương, người mẹ cũng đẹp dù ăn mặc đơn sơ.
-Anh gọi điện cho anh Khả đem cháu lên Di Linh đi, giờ này anh ấy chắc vào lại rồi, em hồi hộp quá. Ôi cháu gái tôi! Cha mẹ ơi, con ở bên cháu mấy năm nay mà nào biết đó là máu mủ của mình !
-Anh sẽ về đón, xin chuyển trường luôn. Vấn đề bây giờ là làm sao báo với ông bà Ngoại mà không bị sốc. Rất nguy hiểm đó em ạ!
Bà Trung ôm lấy chồng khóc rấm rức:
-Ôi cháu ơi, cô có biết đâu cơ sự này!
Ông Trung cũng nghẹn ngào:
-Giá mà trước khi mất, Cậu ấy ghé thăm chúng ta một lần thì đâu nên nỗi…
Im lặng một lát, ông buồn rầu nhìn ra ngoài vườn qua khung cửa sổ, lẩm bẫm:
-Ôi, duyên – nghiệp… Sao quá muộn màng!
Sài Gòn, Tháng V.2014.
Mùa Phật Đản, Phật lịch 2558
Trạch An – Trần Hữu Hội.
Nguồn: Văn Học Nghệ Thuật